Chương 39


Click Theo Dõi -> Fanpage Để phòng website đổi tên miền khác hoặc nhận các thông báo sớm nhất từ admin nhé

Tên vệ sĩ cho tôi uống ít nước. Hắn đấm bóp cho tôi một cách thô bạo – cơ thể Chacal lại quen với cái kiểu này – và đỡ tôi ngồi thẳng lên. Cuối cùng hắn cho tôi ít bột sô-cô-la nhão không đường đựng trong cái cốc nhỏ và chắc tôi phải liếm dần. Tôi liếm. Tôi đoán trong đó có một lượng ca-phê-in bằng năm tách cà phê espresso. Sọ Đá Quý 2 khom người bước qua cánh cửa và đến ngồi bên kia bàn thờ, chỗ Răng Ngạnh 7 đã ngồi. Ông ta vẫn ăn vận như lúc trước, vẫn đeo những chuỗi ngọc bích và vỏ ốc xà cừ, nhưng hình như vừa tắm gội xong. Có thể là tắm hơi. Tôi nghe thấy tiếng ai đó, có lẽ là một tên vệ sĩ khác, đến ngồi bên cạnh tôi, nhưng phép lịch sự của tôi đã tiến bộ và tôi không ngoái ra nhìn.

– Vậy đây là lần đầu tiên Muối Mặn Già đến với ngươi, – Sọ Đá Quý 2 nói.

Tôi ra hiệu “vâng”.

– Dấu hiệu tốt đấy.

Ông ta nói thêm rằng đa phần những người khác không tận dụng được sự giúp đỡ của Muối Mặn Già tốt đến thế trong lần đầu. Cũng như hầu hết các loại ma túy khác thôi – tôi nghĩ – nếu không, khi quen mui sẽ còn đến mức nào? Tôi cược rằng nếu được chơi cùng LEON với thứ thuốc này, chẳng mấy chốc tôi sẽ tìm ra được tên doomster. Mà đấy là tôi mới dùng nhiều lắm một phần tư liều thôi đấy. Không phải là nó không suýt giết chết tôi, nhưng vẫn còn tốt chán.

Sọ Đá Quý 2 lấy ra một điếu xì gà mới, châm nó vào một hòn than và rít.Tôi ngồi nhìn. Đột nhiên, và rất ngạc nhiên, ông ta mời tôi một điếu. Tôi lịch sự nói mấy câu cảm ơn. Ông ta cũng lịch sự đáp “không có gì”. Ông ta châm nó vào hòn than và đưa cho tôi.

Tôi khó khăn lắm mới đưa được tay lên nhận. Rõ ràng dư chấn đặc trưng của Bụi của Muối Mặn Già chính là cảm giác như vừa rơi bộp từ trên cao xuống, hay như vừa bị tiêm vào máu sáu mươi pound chì nén nhỏ lại. Tuy nhiên, tôi vẫn xoay xở tìm được điếu xì gà và đưa vào miệng- tôi biết nên nhập gia tùy tục, nhưng tôi không thích hít bằng mũi – và hít vào một hơi khói. Nó có hương vị tự nhiên rất đậm, thêm vị sô-cô-la và thoảng mùi bạc hà, mùi đá lửa khen khét và cuối cùng là mùi xơ vải. Mẹ kiếp, ngon thật. Cơ thể của Chacal nghiện thứ này điên cuồng.

Ừ thế có nghĩa là lão già Sọ Đá Quý 2 này cũng có tí ấn tượng với mình, – tôi nghĩ. Tôi đã hạ gục cái người tên là Răng Ngạnh 7 kia khá ngoạn mục, phải không? Có điều đừng mở mồm nhắc đến chuyện ấy, – tôi tự nhủ. Đừng xúc phạm người đếm mặt trời của ông ta, dù lão có kém cỏi thật.

– Chúng ta từng có một người đếm mặt trời “tám sọ” nhưng hắn chết rồi, – Sọ Đá Quý 2 nói, rõ ràng ông ta đọc được ý nghĩ của tôi.

Tôi không hiểu như thế nghĩa là gì hay nên đáp thế nào. Có lẽ ông ta muốn nói đến người đếm mặt trời cũ của ông ta có thể chơi với tám viên đá. Nếu thế thật, người đó hẳn phải khá thông minh. Tôi ra hiệu “tôi hiểu”, mặc dù chả hiểu gì.

– Răng Ngạnh 7 chỉ là người đếm mặt trời ba sọ, – Sọ Đá Quý 2 nói, – chúng ta đang tìm cách có được một người đếm mặt trời bảy sọ: Đổ Trời. Nhưng hình như nhà Vẹt Đuôi Dài cũng đã mời hắn.

Tôi gật đầu. Vậy là giữa hai nhà đang diễn ra một cuộc ganh đua để có một người đếm mặt trời giỏi nhất. Cũng như hồi tôi còn nhỏ, ở Alta Verapaz, các làng tranh nhau để mời được ông thầy lang mát tay nhất.

Một kẻ hèn hạ không được phép đặt câu hỏi với bề trên, nhưng có lẽ tôi nên thử liều xem sao. Ông ta đang cởi mở với mình mà, – tôi nghĩ. Chúng tôi có một mối liên hệ đặc biệt mà, phải không?

– Vậy theo ngài, ở trên tôi, ai là người đếm mặt trời giỏi nhất? – tôi hỏi.

– Gió Lốc 11 là người đếm mặt trời chín sọ duy nhất ở Ix, – ông ta đáp, – ngoài ra chỉ còn ba mươi mốt người đếm mặt trời chín sọ mà thôi.

Qu sự tiu ngỉu trong giọng nói, rõ ràng ý ông ta là cả thế giới chỉ có ngần ấy mà thôi. Ông ta nói Gió Lốc 11 đã được thu nhận vào nhà Mèo Rừng từ khi còn nhỏ, cách đây hơn sáu mươi năm, và bây giờ quyền năng của lão ta đã như huyền thoại. Thực tế, trong lúc chúng ta đang nói chuyện đây, lão có thể đã nhắm vào tôi. Và chả mấy chốc nữa, lão sẽ đoán ra được cuộc săn hươu chỉ là làm trò. Lão sẽ xác định được tôi ở đâu bằng một ván cờ Hiến tế và nhà Mèo Rừng sẽ cử một đội quân đến túm cổ tôi.

Tôi hỏi vì sao nhà Ocleot vẫn còn tức giận với chúng ta – tôi lại thầm nhấn mạnh từ chúng ta trong đầu – nếu chúng ta đã đền bù cho họ bằng chuyến săn hươu. Vừa hỏi dứt mồm, tôi đã thấy hối tiếc. Câu hỏi vừa khó chịu vừa ngu xuẩn. Ăn nói cẩn thận đấy, – tôi nhắc nhở mình.

Nhưng nếu câu hỏi đó có làm Sọ Đá Quý 2 bực mình thì ông ta cũng chả tỏ thái độ gì. Ông ta trả lời rằng vì một lý do: có thể hầu hết người thị tộc Mèo Rừng ngờ rằng chúng tôi cố gắng phá họa lễ hiến sinh trên đỉnh kim tự tháp. Nhưng căn nguyên sâu xa thì bắt nguồn từ rất lâu rồi. Mèo Rừng đã đóng vai trò thị tộc đứng đầu thành Ix kể từ khi nó mới ra đời, được cho là ngày Chúa tể 9, Ngụm rượu 3, 8.0.0.0.0.0. Ngày hôm đó, Mèo Rừng 1 đã tuyên bố giữ lại cho mình các hang nước trong núi của ông ta và chia những vùng đất đai xung quanh ngọn núi đó cho các thành viên trong gia đình và bốn ahau cho bốn thị tộc cao quý khác, trong đó có Đại Bàng 1.

Hiển nhiên, nếu Mèo Rừng 1 đã từng tồn tại thật đi chăng nữa thì Chim Ruồi Có Nanh 9, ahau của các ahau đang trị vì hiện nay, cũng không phải hậu duệ chính tông của ông ta như mọi người vẫn tin. Tuy nhiên, không ai định phản đối quyền chiếm giữ các nguồn nước ngọt (tức là hệ thống tưới tiêu, nắm giữ nó cũng có nghĩa là kiểm soát gần hết nông nghiệp của Ix) mà ông ta được thừa hưởng, hay độc quyền của ông ta đối với nô lệ, nó đến từ thực tế rằng ông ta là người Ix duy nhất được phát động chiến tranh. Nhà Mèo Rừng cũng quản lý các phận sự của toàn bộ thành Ix, tức là các nghi lễ, và các bạn có thể gọi nó là quyền giáo hội. Họ còn có độc quyền săn bắn một số loài động vật nhất định ở hầu hết mọi nơi, quyền đòi lữ khách dâng tặng lễ vật – tức là thu thuế cầu đường – quyền phân chia chiến lợi phẩm thắng trận, độc quyền mua bán ngọc bích, vân vân và vân vân. Cứ một unial (tháng gồm 20 ngày) họ lại sở hữu một ngày, thêm năm ngày mỗi tun (năm dương lịch 360 ngày). Và quan trọng nhất, họ có độc quyền đối với các loại ma túy của cờ Hiến tế, một loại hàng hóa không thể thiếu, được những người đưa tin Hậu Duệ Bướm Đuôi Nhạn mang về từ Mexico.

Ái dà, – tôi nghĩ – vậy ra đây là chuyện buôn bán ma túy.

Sọ Đá Quý 2 nói còn có một loại ma túy thứ hai của trò chơi mà Răng Ngạnh 7 chưa bao giờ được thử, gọi là Bụi của Người Chèo Xuồng Già.

– Nếu ngươi gặp Người Chèo Xuồng Già, ngươi sẽ thấy ông ta thậm chí còn già hơn cả Muối Mặn Già, – ông ta nói, – ông ta già đến mức da chuyển sang màu xám đen. Ông ta đứng phía sau xuồng, với mái chèo dài trên tay.

Theo tôi hiểu thì Muối Mặn Già là tên nhân cách hóa của một loại ma túy gây xáo trộn không gian – tức là nó làm anh mất cảm giác về không gian. Và có lẽ, việc kết hợp hai loại này sẽ cho hiệu quả tương hỗ.

– Những người đếm mặt trời nói nếu ngươi có cả hai, họ sẽ ban cho máu ngươi nhiều chớp đến mức ngươi sẽ nhìn vào được cả lòng đá, như thời tổ tiên, cụ kị chúng ta.

Tuy nhiên, Sọ Đá Quý nói, ngay cả với độc quyền mua bán ma túy của trò chơi, nhà Mèo Rừng vẫn không phải bất khả xâm phạm. Thị tộc đó đã lung lay từ vài k’atun trở lại đây. Quá nhiều k’iik nhà Mèo Rừng có lối sống xa xỉ mà chả có mấy tí việc để làm. Họ ngày một nghèo túng đi. “Các uay của họ còi cọc đi”, đó là cách nói của Sọ Đá Quý 2. Nó tương tự như ở Châu Âu thời xưa người ta nói máu của họ loãng dần đi. Vì một số lý do nào đó, những thế hệ gần đây của hoàng tộc Mèo Rừng có xu hướng không bình thường, bị đẻ non hoặc gặp trục trặc tương tự. Chim Ruồi Có Nanh 9 là một thằng lùn bẩm sinh, và chưa ai ngoài người thân trong gia đình được nhìn thấy bộ mặt ông ta lúc không đeo mặt nạ. Nguyên nhân chắc chắn không phải vì họ ăn bằng đĩa đúc từ chì của người La Mã cổ, nhưng chắc chắn họ đang làm gì đó không phải lối. Và thời gian gần đây, họ quản lý đất đai rất tồi, tiêu phí tiền của vào hội hè và xây dựng. Trong lễ hội vừa rồi, để ăn mừng “chiến thắng”trong trận bóng hông được dàn dựng trước, họ đã dùng rồi đốt bỏ lông của bốn mươi ngàn tám trăm con chim ruồi xanh tai tím, mỗi chiếc trị giá hơn một tháng công lao động của một tên nô lệ. Mà đó mới chỉ là một trong số hai mươi loại lông họ đã sử dụng.

Trong khi đó, thị tộc Đại Bàng và thị tộc Vẹt Đuôi Dài lại giàu lên, cả thị tộc Itz’un nữa, tuy có kém hơn một chút. Họ đã tổ chức những chuyến đường thông thương ngày một dài, chạy suốt từ Sonora đến tận Panama. Sọ Đá Quý 2 điều hành việc buôn bán sô-cô-la của đất nước này chẳng kém gì một tơ-rớt. Các nông dân trồng và thu hoạch ca-cao là nông nô nhà tròn thuộc quyền cai quản của ông ta. Hàng chục người làm nghề xát vỏ, lên men, phơi khô và rang hạt ca-cao – chế biến sô-cô-la cần rất nhiều công đoạn – đều được cai quản bởi những thành viên thuộc gia đình lớn của ông ta. Các thương nhân đường dài đều ít nhiều có quan hệ máu mủ với ông ta. Và ngay cả những hàng hóatrao đổi được đem về từ nước ngoài, như muối và đồ dùng bằng đá vỏ chai, cũng được cất trữ tại một trong những khu làng của Sọ Đá Quý 2 trong khi chờ ông ta quyết định nên bán ở đâu và bán vào lúc nào.

Gần đây, nhà Đại Bàng đã trở thành chủ nợ lớn nhất của nhà Mèo Rừng, và cũng như tất cả mọi hoàng tộc trên thế giới, các Mèo Rừng liên tục vỡ nợ. Mặc dù Sọ Đá Quý 2 không dùng khái niệm ấy, dĩ nhiên. Cách gần nhất để thể hiện nó trong tiếng Ix là nhà Mèo Rừng đã trở nên “không được chào đón”. Tức là họ không được dâng tặng lại quà cáp nữa. Thay vì nhượng lại một phần tài sản gốc, như một vài quyền lợi đối với nguồn nước chẳng hạn, họ lại càng ngoan cố giữ rịt lấy, Chim Ruồi Có nanh 9 đã bắt đầu yêu sách “lễ mừng”, tức là thuế bổ sung đối với các loại hàng hóa thậm chí chỉ đi qua đường của nhà Mèo Rừng.

Tôi hỏi về ba dòng họ quý tộc khác của Ix, Sọ Đá Quý 2 cho biết hai trong số đó, nhà Vẹt Đuôi Dài và nhà Itz’un,cũng ghét nhà mèo Rừng không kém gì nhà Đại bàng. Nhưng cũng như nhà Đại Bàng, họ có quan hệ họ hàng với nhà Mèo Rừng thông qua gả bán và nhận nuôi. Ông nội của Sọ Đá Quý 2 là anh rể của ông chú của Chim Ruồi Có Nanh 9. Chị gái của Chim Ruồi Có Nanh 9 là cô của tộc trưởng nhà Vẹt Đuôi Dài. Tộc trưởng của nhà Itz’un đã nhận nuôi hai đứa con trai của cháu gái của Chim Ruồi Có Nanh 9.Cứ thế, vân vân và vân vân. Và các dòng họ này đang hưởng rất nhiều quyền lợi xuất phát từ quan hệ họ hàng với thị tộc cai trị. Tấn công nhà Mèo Rừng cũng có nghĩa là đi ngược lại với lề lối xã hội, cũng như giết người trong gia đình thì tội lỗi hơn so với giết người lạ. Nó sẽ làm mọi thứ rối tung lên đến mức các gia đình khác cũng quay sang hận thù nhau. Và dĩ nhiên, anh không thể đụng vào bất cứ thứ gì thuộc về những người họ hàng đang “ở trong” họ Mèo Rừng.

Ngay cả khi, bằng cách nào đó, những điều khó xử trên tan biến thì Chim Ruồi Có Nanh 9 vẫn là một vị thần sống. Là tộc trưởng của thị tộc mèo cũng như làm giáo hoàng ở Ý vào thời phục hưng. Bất kể giáo hoàng là một thằng thộn đến mức nào, người ta vẫn tin là lão có đôi tai của Chúa. Ngay cả những tên lính đánh thuê dám nhúng tay vào bất cứ việc gì cũng sẽ không tấn công ông ta. Nếu anh muốn hạ bệ ông ta, tốt nhất anh nên đảm bảo rằng chính anh sẽ trở thành giáo hoàng, và phải thật nhanh chân vào. Nếu Sọ Đá Quý 2 tiến tới quyền lực ngày một vững chắc, nhà Mèo Rừng sẽ bị buộc phải đưa ông ta lên đỉnh núi của họ và thừa nhận ông ta là người thừa kế hợp pháp. Họ sẽ dựng lên một phả hệ nào đó “chứng minh” Sọ Đá Quý 2 là hậu duệ trực hệ của Mèo Rừng 1, rồi tổ chức một cuộc bầu chọn vờ vịt tại popol na, tức là nhà hội đồng, để “chọn ông ta làm ahau. Nhưng theo lời Sọ Đá Quý 2, chuyện đó không có cơ xảy ra.

Hiển nhiên, ngay cả trong một xã hội chưa xuất hiện tiền tệ, của cải vẫn làm nên quyền lực, và có lẽ, nếu mọi chuyện được tiếp tục diễn biến theo đà này thêm vài k’atun nữa, nhà Đại Bàng sẽ giàu đến mức thuê lính đánh thuê để chọi lại nhà Mèo Rừng, hoặc có thể chiếm đoạt dần qua hôn nhân, hoặc có thể lôi kéo tất cả các thị tộc khác về phe của họ, hay gì đó. Nhưngnhà Mèo Rừng sẽ không để mọi chuyện đi theo đà như thế. Họ muốn sửa sai ngay lập tức, trước khi nhà Đại Bàng mạnh thêm, và họ đang soi mói hòng moi ra được một sự phạm thượng để gây hấn. Họ đã suýt moi được khi tôi phá hỏng lễ tái đăng quang của Chim Ruồi Có Nanh 9. Sau hôm đó, họ đã nghĩ ra một trò còn đáng sợ hơn.

– Nhà Mèo Rừng đã thách chúng ta có một trận bóng hông lớn, và ta đã chọn mặt trời này: Chảy Xiết 1, Sum Họp 0.

Tức là còn một trăm lẻ sáu ngày nữa. Theo Sọ Đá Quý 2, những trận bóng hông lớn chỉ diễn ra vào dịp “năm mới lớn”, tức là bốn năm một lần. Lần cuối cùng đội nhà Mèo Rừng đấu với nhà Đại Bàng cách đây đã tám năm. Thời xưa, nhiều k’atun trước, những trận bóng hông lớn nhất thường được tổ chức giữa 1 ahau vĩ đại và tù binh quý tộc bị bắt từ những thành phố khác. Đó là cơ hội để vị ahau chứng tỏ mình còn đủ sức trị vì. Các trận đấu khác thường là đấu tay đôi giữa các anh em, các con trai hoặc con rể của ahau để giải quyết những mâu thuẫn có thể dẫn đến nội chiến. “Nhưng đến cái b’ak’tun suy đồi này của chúng ta”, theo cách nói của Sọ Đá Quý 2, các chúa tể thường để những người chơi bóng hông chuyên nghiệp của nhà, như tôi – Chacal, thay mặt cho họ. Đôi khi thị tộc bị thách thức có thể tập hợp cả một đội toàn ngôi sao mượn hoặc thuê từ các thành phố khác. Nhưng lần này, nhà Đại Bàng không thể làm như vậy mà không mất mặt với người đời. Vì đội Mèo Rừng sẽ toàn người trong nhà họ nên đội đối phương cũng buộc phải gồm toàn k’iikĐại Bàng.

Thường thì thế cũng chẳng sao. Đội bóng của nhà Đại Bàng đã chơi tốt trong suốt ba mùa chiến tranh gần đây. Họ cũng là nguồn thu lợi lớn cho Sọ Đá Quý 2 bằng cách mang về tiền thắng cá độ và khuếch trương các thương vụ. Nhưng mùa này, đội nhà Mèo Rừng sẽ chơi tốt ngang ngửa hoặc hơn. Và, Sọ Đá Quý 2 nói, việc Chacal ra khỏi hàng ngũ chẳng phải điều có lợi gì.

Xin lỗi, – tôi nghĩ thầm.

Sọ Đá Quý 2 kể tôi hay – ông ta dùng rất ít lời nhưng nhiều ẩn ý – rằng trên danh nghĩa, được mời tham dự một trận đấu với hoàng tộc là một vinh dự lớn, nhưng thực chất đó thường là tai họa. Theo thông lệ, đa số thành viên của mỗi thị tộc đều muốn đặt cược một phần lớn tiền bạc của mình vào trận đấu. Sọ Đá Quý 2 sẽ phải chịu sức ép mang hơn nửa tài sản ra đánh cược cho đội nhà. Tổng cộng số tiền đặt cược của các đồng minh, phe cánh dưới trướng và những người ủng hộ thậm chí còn nhiều hơn thế. Nếu đội nhà Đại Bàng thua cuộc, họ sẽ mất mát một lượng tiền của khổng lồ, nhưng bù lại được sống sót và không phải chịu cảnh nô lệ, ít nhất là trong một thời gian. Còn nếu nhà Đại Bàng thắng ở phút cuối, nhà Mèo Rừng sẽ đổ cho họ ăn gian. Nhà Đại Bàng sẽ phản đối, và ngay tức thì, nội chiến sẽ nổ ra. Hoặc cũng có khả năng nhà Mèo Rừng dàn xếp được một trận đấu ngay từ đầu bằng cách chỉ định trọng tài hoặc vài mánh khóe nào đó khác. Như thế họ hoặc sẽ chiếm đoạt được tài sản, hoặc sẽ gây chiến ngay nếu nhà Đại Bàng phản đối. Dù theo cách này hay cách khác, nhà Đại Bàng vẫn chết kẹt. Đây là một trò lừa đảo lộ liễu, nhưng cũng chẳng làm thế nào được. Anh không thể từ chối lời thách thức. Ở đây, mất mặt là mất hết.

Khốn kiếp thật, – tôi nghĩ. Thôi, chí ít tôi cũng hiểu ra được một điều mà lúc trước tôi chưa hay, đó là nhà Đại Bàng đang phải chịu áp lực ghê gớm. Nếu là thời điểm khác, tôi đã có thể thực hiện dự án “bàn xoay thợ gốm” hay gì gì đó. Nhưng ở đâu cũng vậy, các bố già mafia như Sọ Đá Quý 2 và Chim Ruồi Có Nanh 9 luôn sẵn sàng tư thế cho cuộc chiến tranh giành tiền bạc. Và sau vụ thất bại trên đỉnh kim tự tháp của tôi, Chim Ruồi Có Nanh 9 đang tìm cớ để ra tay. Và ông ta sắp sửa thành công.

Thật vô phương cứu chữa, – tôi thầm nghĩ, – mình về nhầm phe rồi. Tôi nên chuồn khỏi đây và chạy sang nhà Mèo Rừng thì hơn. Chỉ có điều, một: tôi không thể qua được cái cửa này chứ đừng nói đến những cánh cửa khác; và hai: họ sẽ không hiểu được tôi như Sọ Đá Quý 2. Nếu họ tha không tra tấn trước khi ăn thịt đã là may cho tôi lắm rồi…

U…ồ…

Tôi có cảm giác rợn tóc gáy là Sọ Đá Quý 2 đang dò xét ý nghĩ của tôi, ý tôi là về chuyện chạy sang hàng ngũ bên kia.

Thoạt đầu, tôi nghĩ mình đang chờ ông ta ra lệnh giết tôi. Nhưng càng nhìn, tôi càng nhận ra mình cảm thấy gần như thân thiết với ông ta. Có lẽ đó chỉ là hội chứng Stockholm (Hội chứng Stockholm: Hiện tượng tâm lý đôi khi xảy ra với con tin bị bắt cóc, theo đó nạn nhân tỏ dấu hiệu đồng cảm với kẻ bắt cóc mà không tính đến hoàn cảnh nguy hiểm hay rủi ro của mình) thôi.

Hoặc chỉ là, khi anh ở vào một hoàn cảnh đáng sợ, anh thường bám lấy người nào đó ưa mình nhất, kể cả khi người đó muốn bắt giam anh.

Biết đâu ông ta cũng không đến nỗi tệ. Biết đâu ông ta có quá nhiều tôi trong đầu đến mức cảm thấy gần gũi với tôi…

Ấy, từ từ đã. Dừng cái sự dễ chịu ấy lại. Ông ta đã đãi mày những giờ phút khốn khổ nhất trong đời đấy. Nhớ không?

– Hãy nhốt uay của ngươi trong chuồng vào ban đêm, – Sọ Đá Quý 2 nói. Câu ấy có nghĩa là: “Đừng có giở trò gì đấy”. Nhưng ông ta nói với giọng có tí xíu đùa cợt.

Phù. Được thôi. Đổi đề tài vậy.

– Tôi muốn chơi một ván nữa, – tôi đề nghị. Tôi nói tôi muốn thử lại Bụi của Muối Mặn Già thêm một lần nữa, muốn tìm hiểu xem có thực là Gió Lố 11 đang sắp lần ra tôi hay không, nhà Đại bàng nên làm gì tiếp theo và nên làm gì với trận đấu bóng hông. Tôi không nói là tôi giỏi hơn Răng Ngạnh 7, nhưng hiển nhiên là tôi nghĩ thế.

Sọ Đá Quý 2 nói tôi chưa nên thử liều thứ hai trong vòng vài ngày tới. Ngươi phải “Đánh bóng mình” với nó, – ông ta nói. Nghĩa là ngươi phải tăng dần liều lượng qua nhiều năm. Nhưng ngay cả khi tôi tăng được sức chịu đựng thuốc,tôi cũng sẽ không thể bằng Gió Lốc 11. Có những điều bí ẩn liên quan đến trò chơi mà những người đếm mặt trời sọ thấp không được phép biết và những người sọ cao thường không truyền đạt lại. Các vị ahau không muốn người đếm mặt trời nhà mình đào tạo quá nhiều người học nghề vì một trong số đó có thể rơi vào tay kẻ thù. Phần lớn những người đếm mặt trời, ngay cả những người xuất xứ từ các thành phố Maya, đều được huấn luyện tại Tamoan, và mỗi k’atun chỉ có một vài người rời khỏi thành phố đó.

Tamoan à? – tôi thắc mắc. Tôi không biết cái tên này, nhưng nó gợi cho Chacal một sự liên tưởng, một bộ ba kim tự tháp khổng lồ.

Sọ Đá Quý 2 nói trong số ba mơi hai người đạt đẳng cấp chín sọ hiện còn sống mà ông biết, mười tám người đang ở Tamoan. Mười bốn người còn lại sống rải rác tại nhiều thủ phủ khác nhau của Mesoamerica, mỗi nơi chỉ có một, hoặc tối đa hai người. Và trừ phi tôi được học một người trong số đó, tôi sẽkhông bao giờ lên được đẳng cấp chín sọ. Mà đằng nào tôi cũng chẳng lên được trình ấy vì tôi lớn quá tuổi rồi.

Tôi thở dài tỏ ý rằng tôi hiểu. Mẹ kiếp.

– Và ngay cả khi ngươi thuyết phục được một người trong số họ dạy ngươi, ngươi cũng chưa chắc học được gì – ông ta nói. Vì cứ một người đạt được chín sọ thì có đến bốn trăm kẻ khác không tiến xa được đến thế.

Nhảm nhí, – tôi nghĩ, – tôi sẽ làm được . Nhưng tôi không nói ra.

Và ngay cả khi ngươi té ra là một thằng sáng dạ – ông ta nói tiếp – thì tôi cũng chưa thể chơi được một ván với chín viên đá nếu chưa qua nhiều năm luyện tập. Trong ba mươi mốt người chín sọ, rất ít người dưới bốn mươi tuổi. Tuy nhiên – ông ta nói thêm – cũng có những người đếm mặt trời nữ giới ít tuổi hơn.

Tôi hỏi vì sao.

– Vì Muối Mặn Già thân thiện hơn với phụ nữ, – ông ta đáp, – đấy là người ta nói thế.

Phải, – tôi nghĩ, – hoặc thế, hoặc đơn giản là phụ nữ giỏi trò đó hơn.

Ngoài ra, – ông ta nói – ông ta cũng chỉ còn lại có một ít, và chúng sắp hỏng rồi. Dùng nhiều hay ít chưa hẳn quan trọng, quan trọng là thuốc còn tốt hay không. Và thứ thuốc này không tốt dần lên theo thời gian. Trong khi đó, nhà Ocelot sẽ không để ông ta có được thêm tý nào nữa. Có vẻ như chính họ cũng không còn đủ dùng.

– Ngoài tất cả những điều đó ra, – ông ta nói, – Gió Lốc 11 sẽ tìm thấy ngươi trước. Ngươi phải là một chín sọ mới hòng lừa được một chín sọ.

Nghe thật muốn nản lòng, nhưng tôi phải công nhận rằng những lời ấy ít nhiều có lý. Cũng giống như trong môn cờ vua hay cờ vây, việc xếp hạng phản ánh trình độ chính xác đến mức hiếm khi gây được đảo lộn bất ngờ. Thí dụ, trong cờ vây, anh mới đạt một đẳng thì xác suất anh đánh bại được một kỳ thủ chín đẳng chỉ là một phần ba mươi. Và dù tôi có cảm giác phi thường trong ván cờ tay đôi vừa rồi thì đó cũng chỉ là chơi với một viên đá. Tôi chưa tưởng tượng ra được chơi với bốn viên đá sẽ thế nào, chứ đừng nói đến chín viên.

Hừm. Nói đến đây mới nhớ, tôi định hỏi chuyển gì đó… À phải rồi.

– Thưa, Gió Lốc 11 co thực sự là người đếm mặt trời chín sọ duy nhất ở Ix không? – tôi hỏi. – Còn người phụ nữ được nhắc đến trong cuốn Thư tịch,ahau-na Koh thì sao?

– Ta đã nhìn thấy bà ta trong cuốn sách trong con sâu bọ của ngươi, – Sọ Đá Quý 2 đáp, – k’aana’obol – tức là ông chú lớn nhất đằng ngoại – của công nương Koh là e’ta’taxoco’ obo l’ta’taxoco của ta.

Có nghĩa là ông ta là anh em cùng cha khác mẹ với ông ngoại của người anh họ thứ hai của Sọ Đá Quý 2. Rất mừng là ta đã làm sáng tỏ được điều này, – tôi nghĩ.

Ông ta nói thêm công nương Koh ra đời cách đây hai mươi tám năm tại một ngôi làng cách Ix hai ngày đường về phía bắc. Gia đình bà ta là một nhánh của hoàng tộc ở Lakamha, tức Palenque (Palenque: Một khu di tích của người Maya thuộc bang Chiapas của Mexico) ngày nay, và họ có quan hệ máu mủ với cả nhà Mèo Rừng lẫn nhà Đại Bàng ở Ix. Bà ta có những đặc điểm dị hình của người đếm mặt trời bẩm sinh. Một trong số đó là bàn tay của bà ta có mười một đứa con, tức là mười một ngón. Khi bà ta lên bảy, nhà Ocelot đã sắp xếp gửi bà ta cùng một vài đứa trẻ khác thuộc gia đình Maya quý tộc tới đền Rắn Chuông Sao ở Tamoan. Đồng thời, cũng ngần ấy đứa trẻ thuộc các gia đình tu’nikob’ – nghĩa là thầy tư tế – có đẳng cấp của đền Rắn Chuông Sao được đưa đến các thành phố Maya. Tôi đoán đó là một dạng trao đổi con tin, hay trong trường hợp này, nghe có vẻ giống chương trình trao đổi sinh viên. Hầu hết những đứa trẻ Maya đến Tamoan đều không đạt yêu cầu và phải quay về sau vài năm, nhưng riêng Koh lại trở thành một trong bốn mươi người đếm mặt trời nữ giới thuộc Giáo Hội Rắn Chuông Sao. Cùng thời điểm đó, ngôi làng của bà ta bị những người Ti’kal chiếm đóng và gia đình bà ta bị bắt đi. Sọ Đá Quý 2 không biết liệu họ đã bị hành hình chưa, hay vẫn làm con tin.

– Cuốn Thư tịch nói bà ta đang ở tại Ix, – tôi nói.

Sọ Đá Quý 2 nói điều đó không đúng. Ông ta đã đọc cuốn Thư tịch trong ký ức của tôi, và nó chỉ nói rằng bà ta đến từ Ix.

Tiên sư nó, – tôi nghĩ. Ừ, xét cho cùng, những ký tự đó cũng hơi mơ hồ thật. Chết tiệt, lại thêm một thất bại nữa sau cả một chuỗi liểng xiểng. Vậy mà Michael Weiner cho rằng bà ta chỉ ở quanh đây. Đúng là thằng xuẩn.

– Thưa, vậy còn ván chơi trong cuốn sách đó thì sao? – tôi hỏi.

– Ta có một bản sao, – Sọ Đá Quý 2 nói Mặc dù ván đó bà ta chơi cho nhà Mèo Rừng.

Hay nhỉ, – tôi nghĩ bụng, – thì ra đây là một cuốn sách bán chạy à?

Tuy thế, tôi nghĩ chuyện này cũng có thể hiểu được. Ý tôi là, nếu một ngày nào đó trong tương lai, anh dạo quanh đống đổ nát của thành phố Orlando và bới từ đống rác lên được một cuốn sách cổ nhàu nát, liệu đó sẽ là một cuốn sách như thế nào? Một bí ẩn phi thường, đặc biệt chăng? Hay chỉ là một cuốn sách tầm thường dớ dẩn nào đó?

Tôi hỏi ông ta rằng ván cờ đó đã diễn ra ở đâu. Ông ta trả lời rằng Koh đã chơi nó ở Tamoan để làm quà dành tặng cho những người thân ở phía đông nam.

– Thưa ngài, ở dưới chân tôi, – tôi hỏi, – Tamoan có phải là tên gọi của Teotihuacán không?

– Ta không biết cái tên đó, – ông ta đáp.

Tôi giải thích rằng đó là một thành phố vô cùng lớn, với ba kim tự tháp khổng lồ và hàng trăm ngôi khác nhỏ hơn. Tôi nói nó nằm cách đây khoảng ba mươi nhăm k’in – tức là ba mươi nhăm ngày đường, nếu mỗi ngày đi bộ khoảng ba mươi dặm – về phía tây – tây bắc.

Sọ Đá Quý 2 tặc lưỡi, cử chỉ đó có nghĩa là “Đúng rồi”.

Hừm, – tôi thầm nghĩ.

Teotihuacán là cái tên theo tiếng của người Aztec. Nhưng người Aztec, những người nhìn thấy thành phố ấy lần đầu vào thế kỷ mười bốn, chỉ biết nó là một đống đổ nát khổng lồ; họ không biết, và cũng không ai biết tên thật của thành phố đó vào thời xa xưa. Người ta nói đó là nơi Mặt Trời Thứ Tư và Mặt Trăng Thứ Ba ra đời. Như tôi đã nói, nó từng là thành phố lớn nhất tây bán cầu, với tối thiểu hai trăm ngàn dân, khoảng bằng dân số thành London năm 1750.

Sọ Đá Quý 2 nói rằng Teotihuacán – chúng ta cứ gọi thế cho thống nhất – chỉ cách nơi thời gian bắt đầu, tức là ngày Chúa tể 4, Bóng tối 8, 0.0.0.0.0 hay ngày 11 tháng 8 năm 3113 trước Công nguyên, có một ngày đường. Vào ngày hôm đó, hai thủy tổ là Đầm Lầy Xanh và Cuồng Phong đã xây dựng một thành phố tên gọi là Tola, với những thác nước đẹp mê hồn chảy xuống từ các ngọn tháp san hô đỏ và những quảng trường lát thạch anh tím và ngọc bích. Những người dân đầu tiên đã sống ở đó cho đến ngày Chúa tể 4, Rừng 18, .0.0.1.0 – tức là ngày 25 tháng 6 năm 353 trước Công nguyên. Ngày hôm đó, Prank – Người Nuốt Mặt Trời đã phá hủy thành phố bằng một cơn lốc xoáy mang theo những lưỡi dao nóng bỏng. Một trăm tám mươi người sống sót ẩn nấp trong một hang động, sau đó theo dấu một con kền kền tới vùng đất của dòng sông huyền bí cách đó có ba mươi dặm về hướng đông. Sau hai mươi ngày không có mặt trời, vào ngày Chúa tể 11, Thu mình 18, họ tìm thấy một thành phố mới, thành phố Teotihuacán.

Toàn bộ những người sống sót tự cắt máu – nghĩa là họ thề – rằng tại thành phố mới này, không kẻ nào được phép làm điều tự đắc, tức là những việc có thể khiến Prank và bất cứ người khói nào khác nổi giận. Không ai được tự phong mình làm ahau. Thay vào đó, thành phố thuộc quyền quản lý của một hội đồng tộc trưởng đại diện cho hai nửa của thành phố. Toàn bộ người dân đều thuộc một trong hai nửa: nửa đỏ – lo các sự vụ chiến tranh – hoặc nửa trắng – lo các công việc hòa bình. Không ai trong số các tộc trưởng được tự đề cao tên tuổi mình, kể cả trong diễn văn trước công chúng hay trong các văn tự ghi chép, thực tế, thời đó, chữ viết vẫn là một nghệ thuật không được phổ biến. Vào mỗi buổi sáng sớm hay giữa trưa, tất cả người dân sinh sống trong thung lũng sẽ ra ngoài trời và dâng khói cho những người khói. Người ta không bao giờ phá bỏ cái lệ đó, bất kể vì chiến tranh, thời tiết, bệnh tật hay lý do nào khác, cứ thế liền một ngàn không trăm mười bảy năm nay.

Đế chế ở Teotihuacán có ảnh hưởng rộng khắp. Họ sở hữu thứ gần nhất với quân đội chính quy ở tây bán cầu, với bộ binh hành quân theo đội hình và dùngatlatl (Một dụng cụ dùng lực đòn bẩy để tăng tốc lực cho mũi tên hoặc lao, mác) bắn hàng loạt tên. Các thủ lĩnh của Teotihucán đã chiếm nhiều thành phố Maya như Ti’kal và Kaminaljuyú rồi thành lập vương triều của mình tại đó. Mỗi năm, hàng trăm thành phố và hàng ngàn đô thị phải gửi tới thành phố này những “quà tặng” theo thỏa thuận trước. Teotihuacán cái quản việc buôn bán đá vỏ chai khai thác từ các mỏ gần đó, chính vì vậy, trong một số phương ngữ, đế chế này còn được gọi là K’Kaalom K’sic – Vùng Đất Của Những Lưỡi Dao. Ngoài ra nó còn bán quặng sắt đỏ, muối mỏ, nô lệ bắt được từ miền bắc và hàng tá những thứ khác. Và nó độc quyền đối với Bụi của Người Chèo Xuồng Già.

Tuy nhiên, trong hai thế kỷ trở lại đây, biên giới của đế chế này có phần suy yếu. Mỗi năm một nhiều những kẻ – tôi nghĩ chúng ta có thể gọi là những kẻ mọi rợ – ở phía bên kia biên giới lăm le hòng xâu xé một phần. Bất chấp lính bộ binh, hầu như mỗi ngày đều có một tiền đồn bị đột kích. Tệ hơn nữa, các đô thị mới phất thuộc đế chế lại không chịu cống nạp, lờ tịt những người thu thuế và hạ bệtầm ảnh hưởng của hội đồng giám sát việc buôn bán. Chẳng hạn như lẽ ra Teotihuacán cai quản toàn bộ việc mua bán muối, nhưng gần đây, người Ix và dân các thành phố khác đã mua muối biển trực tiếp từ các làng ven biển. Và chính thành phố Teotihuacán đang ngập chìm trong cái mà ở thế kỷ 21 người ta gọi là “những vấn đề đô thị” như quá đông đúc, bệnh lao, kinh tế sa sút, sự bất mãn của những người ở nông thôn, và gần đây là vấn đề tôn giáo, hay theo cách diễn đạt của Sọ Đá Quý 2 là “những tiếng la ó và ném đá quanh đền Rắn Chuông Sao”.

Nó sẽ không tồn tại lâu nữa. Hình như tôi đã đề cập điều này đâu đó ở đoạn trước, các nhà khảo cổ học đã xác định thời điểm chết của thành phố vào khoảng từ năm 650 đến 700 Công nguyên. Nhưng bất chấp những tiến bộ trong ngành khảo cổ đã xác định niên đại, nào xác định ADN phấn hoa, nào xác định đồng vị phóng xạ và hàng tá kỹ thuật xác định khác, đến năm 2012, người ta vẫn chưa thu hẹp được khoảng cách ước đoán trên.

Nhưng thành phố đó không hẳn đã rơi thẳng vào lãng quên.Khoảng năm 1000 Công nguyên, xã hội của người Toltec trở thành nền văn minh lớn nhất cao nguyên Mexico, và tuy chưa rõ liệu họ có quan hệ gàn gũi với những người ở thành phố Teotihuacán hay không, nhưng có lẽ cũng công bằng khi nói rằng phần lớn tập tục của họ có nguồn gốc từ Teotihuacán. Và ba trăm năm sau nữa, tộc người được gọi là Aztec tiếp quản những gì còn lại của hệ văn minh Toltec và phát triển nó thành một đế chế mà đến năm 1518 đã lớn mạnh gần bằng đế chế Teotihuacán vào thời điểm này.

Tóm lại, điểm chính yếu ở đây là rõ ràng đế chế đó lúc này chưa sụp đổ. Sọ Đá Quý 2 nói ông ta cho rằng nguyên nhân chính là vì hai Popol của Teotihuacán – ừm, có lẽ trong trường hợp này, chúng ta nên dịch Popol là “hội đồng tôn giáo” vì vai trò của họ lớn không kém gì vai trò phi tôn giáo – có thể ngừng bán Bụi của Muối Mặn Già và Bụi của Người Chèo Xuồng Già cho bất cứ khách hàng nào không ủng hộ nó. Mạng lưới những người đếm mặt trời, giống như một tổ chức xuyên quốc gia, có thể hoạt động cầm chừng một chút, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ hết thuốc và lại cần đến nguồn cung cấp. Ông ta ngờ rằng “giáo hội” mới đây đã cắt giảm lượng bán vì họ muốn gây những cuộc chiến nho nhỏ giữa các thành phố Maya nhằm làm chúng suy yếu đi. Hơn hết thảy những vai trò khác, cờ Hiến tế là cá nhân gìn giữ hòa bình. Khi một chính quyền không đoán trước được điều gì sắp xảy ra, họ sẽ trở nên hoang tưởng và đó là lúc chiến tranh lan ra.

Và dĩ nhiên – Sọ Đá Quý 2 nói – cứ sau một mùa hòa bình, những người đếm mặt trời lại có bụi mới, đó là lý do vì sao họ bảo vệ được thành phố an toàn lâu đến thế. Họ có thể nhìn thấy những mối đe dọa sắp đến khi chúng còn ở rất xa, về cả thời gian lẫn không gian. Nhưng điều đó sẽ không kéo dài bao lâu nữa.

Sọ Đá Quý 2 ngừng lời. Và khi ngừng lời, ông ta im lặng hoàn toàn. Dù bộ ngực ông ta bị lấp kín dưới đống trang sức phô trương, tôi vẫn nhìn thấy hơi thở ông ta phập phồng.

Tôi ngồi yên. Tôi hít một hơi dài. Khiếp thật, nó nặng thật đấy. Phù. Hừ, nó có thể khiến anh làm khối việc điên rồ đây.

– Tôi, kẻ dưới chân ngài, có một thắc mắc, – tôi nói, – có đúng là người ta chưa đoán được mặt trời cuối cùng của Teotihuacán?

Sọ Đá Quý đáp rằng theo ông ta biết thì chưa.

– Nhưng ta có thể nhìn thấy trong con sâu bọ của người, rằng thành phố đó sẽ không tồn tại thêm quá hai k’atun nữa.

Tôi tặc lưỡi.

– Khi đế chế đó biến mất, nhà Mèo Rừng sẽ khốn đốn, – Sọ Đá Quý 2 nói, – nhưng vẫn là quá muộn đối với chúng ta.

Thật ấy chứ, – tôi nghĩ. Tôi chỉ còn khoảng bảy tháng trước khi bộ óc tôi nát nhoét như kem bơ lạc.

Lại một sự im lặng khó chịu nữa. Hai chân tôi tê cứng đi cho dù đã được rèn luyện. Có lẽ tôi nên hỏi thêm câu nữa.

– Thưa ngài, ở trên tôi, vì sao lại có việc ném đá quanh đền Rắn Chuông Sao?

Sọ Đá Quý 2 trả lời rằng ông ta không biết chính xác. Nhưng chuyện bắt đầu từ lâu rồi. Rắn Chuông Sao thuộc một tầng lớp không phải người thường, thậm chí không bắt nguồn từ một tổ tiên nào cả. Tôi nghĩ ta có thể gọi họ là thần thánh, nhưng cũng không hẳn. Tổ tiên cũng là thần thánh, những người có quyền lực còn sống cũng vậy. Thực tế, tôi đã có lần nghe ai đó nói rằng trong mọi thứ quanh ta đều có thần linh. Có lẽ, cái tên chính xác hơn dành cho Rắn Chuông – cho cả nữ thần Cóc Đất, bốn thần mưa Chac và một loạt thần núi non, sông hồ khác – là “linh thần”. Mỗi vị đều có một đền thờ, các thầy tế và những người sùng bái mình ở mọi thành phố lớn. Nhưng vào thời điểm này, năm 664, hệ thống đền thờ Rắn Chuông đang mở rộng nhanh hơn đền thờ của bất cứ linh thần nào khác.

Và, hẳn các bạn cũng biết, sau này, nó vẫn tiếp tục mở rộng. Von Humboldt đã gọi Rắn Chuông là Rồng Maya. Morley gọi nó là Rắn Lông Chim và Salman Rushdie (Tiểu thuyết gia người Anh gốc Ấn) gọi nó là Chim Rắn. Kukulkan, cái tên theo tiếng Yucatec của Rắng Chuông đã trở nên khá quen thuộc còn Quezflcoat, tên tiếng Nahuatl, thì nổi tiếng đến mức được dựng thành nhân vật trong Warcraft. (Warcraft: Loạt sách và trò chơi điện tử nổi tiếng của Mỹ)

Bởi mình Rắn Chuông chính là dải ngân hà nên giáo hội thờ cúng nó không bị ràng buộc với bất cứ thị tộc hay màu sắc nào. Về mặt lý thuyết, nó đeo dính lấy tất cả. Vì vậy, hệ thống sùng bái này có tính quốc tế hóa khiến nó phần nào hơi phá cách. Nhưng nó vẫn được ngưỡng mộ nhiệt thành. Ở Ix, và tôi cho là ở mọi thành phố Maya khác, bất cứ người có của nào cũng đều là thành viên của một vài giáo hội thờ cúng khác ngoài giáo hội của tổ tiên họ. Và hiển nhiên, toàn bộ năm dòng họ quý tộc của thành Ix đều thờ cúng Rắn Chuông. Kim tự tháp của Rắn Chuông Sao ở Ix tuy nhỏ nhưng cổ kính, đỏm dáng và giàu có.

Nhưng ở Teotihuacán, Rắn Chuông là cả một vấn đề lớn. Nó ngày một trở nên chướng mắt đối với những cộng đồng đã bám rễ lâu đời hơn. Hai hội đồng tôn giáo của Teotihuacán, sở hữu hai kim tự tháp khổng lồ mà những người Aztec sau này gọi là Kim Tự Tháp Mặt Trời và Kim Tự tháp Mặt Trăng, vẫn cho phép hệ thống thờ cúng Rắn Chuông hoạt động, nhưng đặt ra nhiều ngăn cấm, hạn chế. Vậy mà hình như mỗi ngày, những đứa con của Rắn Chuông lại dâng cúng thêm nhiều đồ lễ, tức là hoa – và tin tức này đã bị bưng bít khoảng hai mươi ngày. Chắc đó chính là nguyên nhân dẫn đến xô xát. Sau vụ việc đó, bốn mươi người đếm mặt trời nữ giới của Rắn Chuông đã trở thành tù nhân chính trị, vĩnh viễn bị giam cầm trong đền thờ của họ ở đầu phía nam thành phố.

Hừm, – tôi ngẫm nghĩ.

– Thưa, công nương Koh có trung thành với nhà Mèo Rừng không? – tôi hỏi.

Lại im lặng. Nó cứ kéo dài mãi như sợi pho mát kéo ra từ miếng pizza nóng. Đột nhiên, ông ta cười to lên. Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy ông ta cười, tiếng cười thực sự dễ thương, như tiếng ông già Nô-en vậy. Và tôi cũng cười.

– Bà ta gần gũi hơn với nhà Mèo Rừng, – ông ta đáp, – Thế nhưng, họ đã đưa bà ta đến Teotihuacán trong khi bà ta không muốn.

Ừ, có lẽ điều ông ta muốn chính là thử một cách tiếp cận gián tiếp, tấn công nhà Mèo Rừng từ bên ngoài.

Nào, Jed. Cố lên. Ông ta hẳn cũng cảm thấy mày có thể làm nên trò trống gì đó, một điều gì đó hết sức quan trọng, điều gì đó có thể cứu thoát tất cả chúng ta. Nếu không, ôn ta giữ lại cái mạng mày làm gì? Ông ta không thể đi, nhưng mày có thể.

Tôi liền đề nghị với Ahau Sọ Đá Quý 2 rằng tôi, kẻ dưới chân ông ta, có thể đến Teotihuacán.

40

Vào giờ phong lan thứ chín – tức là phiên gác đầu tiên, ngay sau khi mặt trời lặn – Sọ Đá Quý 2 đưa tôi tới trình diện trước Đoàn Lữ Hành Rắn Vipe 11 của nhà Đại Bàng. Đó là một tổ chức – hay các bạn có thể gọi nó là hội ái hữu hoặc thậm chí tập đoàn – mới thành lập, trên danh nghĩa là để thực hiện một thương vụ đột xuất, nhưng mục đích thực sự là đưa tôi đến Teotihuacán.

Chúng tôi ngồi trên những tấm thảm lông chim, trên đỉnh một quả đồi tròn, thấp, được đốt quang, nằm khuất giữa hai vách cao hơn của dãy núi. Chúng tôi vẫn đang ở khá gần làng Cacao – đó là tên họ đặt cho thủ phủ của Sọ Đá Quý 2 – đủ để thoáng ngửi thấy mùi sô-cô-la trong không khí. Tôi ngồi hướng mặt về phía đông nam. Mười chín k’iik khác các đoàn – các k’iik thường đi thành từng k’at, nghĩa là một nhóm hai mươi người – ngồi quây thành hình bán nguyệt đối diện tôi, hai chân, hai tay khoanh lại. Rất lâu sau này, những người thổ dân Oglala Sioux trong vở kịch “Miền Tây hoang dã” của Buffalo Bill cũng ngồi theo lối tương tự và nó được gọi là ” kiểu ngồi thổ dân”. Nhưng khi những người này ngồi, đó không chỉ là tư thế ngồi, mà là tư thế sẵn sàng bật dậy, như một cái lò xo trong trạng thái nén. Sọ Đá Quý 2, Bacab của miền Đông, tộc trưởng của thị tộc Harpy, tên đao phủ của thằng đần Jed DeLanda, cái bánh mì thịt toàn thiện toàn mỹ, ngồi bên tay “đàn ông”, nghĩa là tay phải tôi. Sên Xanh 3, lão thầy tế lùn, lật đật đi qua đi lại trước mặt ông ta, sắp xếp gói này bọc nọ trên chiếc thảm cúng. Lão nói bằng cái giọng không ra già không ra trẻ của mình:

– Như chúng ta, những kẻ dưới chân ngài,

Được biết:

Thủ lĩnh của chúng ta,

Tấm gương của chúng ta,

Người xua tan mây mù,

Sọ Đá Quý 2

Sẽ ban cho chúng ra đôi lời.

Chúng ta lắng nghe

Dưới chân ngài,

Chúng ta

Cúi mình chờ đợi.

Sọ Đá Quý 2 nói: – Ta, ở trên các ngươi, muốn hỏi.

Tất cả, trừ tôi, đồng thanh trả lời: – Chúng tôi, ở dưới chân ngài, xin trả lời

– Các ngươi có nhận món quà này?”

Gánh vác trách nhiệm này?

Sọ Đá Quý 2 hỏi. Giọng ông ta không to hơn những người khác, nhưng dường như nó vang xa hơn và vọng lại từ một vách đá xa tít ngoài tầm mắt. Tôi vẫn biết ông ta nổi tiếng về tài hùng biện, nhưng đến giờ tôi mới hiểu tại sao.

Các k’iik yên lặng một chốc để quan sát tôi. Tôi cũng giương mắt nhìn họ. Trao đổi ánh mắt là một kiểu thách thức ở đây. Nếu anh làm thế, hãy sẵn sàng mà oánh nhau. Họ chằm chằm nhìn tôi. Hun Xoc và thằng em trai, Tay 2, ngồi cạnh nhau, phía ngoài cùng bên tay phải. Đó từng là hai hậu vệ số một và số hai của Chacal, cũng là hai người đã để mắt canh chừng cho tôi trong chuyến săn hươu. Hun Xoc và Tay 2 là hai trong bốn người duy nhất trong đoàn biết láng máng chuyện gì đã xảy ra, nghĩa là biết tôi từng là Chacal nhưng bây giờ tôi đã là người khác. Các k’iik khác cũng từng xem Chacal chơi bóng, nhưng chưa từng thấy anh ta ở khoảng cách gần, và đến lúc này, chưa ai có ý nghi ngờ gì. Người đứng tuổi ngồi cạnh họ tên là Mưa Chết 18, là Người Quản Lý Nợ của chúng tôi, chức danh này từa tựa như giám đốc tài chính vậy. Lão tròn trĩnh, da dẻ hãy còn căng và xem ra tốt tính. Gã dần dần ngồi bên trái ông ta là một người ghi nhớ, nhưng không phải gã trong hang của Sọ Đá Quý 2. Hắn thấp bé, mảnh khảnh, với cặp mắt lồi và hoá trang kiểu con khỉ. Và phía ngoài cùng bên tay trái là một lão già người dong dỏng, đôi mắt sâu đỏ rựng và làn da săn chắcvì dai nắng, tên là Cá Sấu 12. Lão là anh chồng của cháu gái Sọ Đá Quý 2 và chức danh chính của hắn là Người Quản Lý Tay Dài. Căn bản, nó có nghĩa là “chủ nhân của những cánh tay”, thủ lĩnh trong chiến trận. Lão cũng đồng thời là nojuchil, người dẫn đầu đoàn. Lão có bộ răng khấp khểnh chẳng mấy ưa nhìn, hai cục u lồi lên hai bên vai nơi những mảnh sót lại của mũi lao đá hẵng còn cắm sâu trong thịt. Hai bên mình lão lấm chấm những hình xăm tưởng niệm một người anh có vị trí tồn quý đã chết trong một trận đột kích ở Motul. Người ta đồn rằng lão có thể nhìn thấy trong bóng tối đen như mực bởi ông nội lão là một con lửng. Lão là người già nhất trong đoàn. Tiếp đến, bên phải lão, là một k’iik ít tuổi hơn, khắp mình tô vẽ những màu sắc dành cho thầy mo, tên là Hun Aat, hoặc ngắn gọn là Aat, nghĩa là “Dái”. Hắn là phụ lễ cho Sên Xanh 3, cũng là người thứ tư biết chuyện về Chacal. Hắn sẽ giữ vai trò thầy hành lễ kiêm người đếm mặt trời chính thức của đoàn chúng tôi. Hắn thạo cờ Hiến tế đến mức nào nhỉ? – tôi ngẫm nghĩ. Có khi chưa chắc đã bằng Răng Ngạnh 7. Giời ạ, cả một lũ kém cỏi. Rồi, còn ai…mẹ kiếp, cái phút im lặng này kéo dài hơi lâu đấy. Có lẽ họ sắp lại gần, chọc ngoáy tôi, tìm ra yếu điểm nào đấy để từ chối tôi. Tất cả những trò này sẽ chẳng đi đến đâu. Đếch gì…

Đột nhiên, các k’iik đặt tay phải lên vai trái, tỏ ý chào mừng và nói, gần như đồng thanh:

– Chúng tôi, những kẻ dưới chân ngài,

Không xứng với một món quà như vậy,

Nhưng chúng tôi sẽ giữ gìn,

Sẽ bảo vệ anh ta.

Phù, – tôi nghĩ, – rất mừng là chúng ta làm rõ được điều đó.

Sọ Đá Quý 2 quay sang nói với tôi:

– Vậy từ nay,

Đây là những người anh của ngươi,

Những người em của ngươi,

Hãy đi theo họ,

Nghe lời họ,

Đừng hèn nhát,

Đừng làm ta hổ thẹn,

Tôi đáp:

– Tôi, kẻ dưới chân ngài

– Sẽ vượt qua thử thách.

– Ngươi được chấp nhận, chúng ta đã quyết định xong, – Sọ Đá Quý 2 tuyên bố.

Tôi đứng lên và xoay một vòng ngược chiều kim đồng hồ, trình diện với năm phương rồi quỳ xuống, cúi đầu chạm đất, hai tay đặt dưới trán, ra mắt gia đình mới. Cá Sấu 12 bước lên trước tiên và đưa tặng tôi một chiếc ống xì đồng. Cảm ơn, đúng cỡ của tôi. Tiếp đến, tôi nhận được một wi’kal, một loại áo khoác lửng may bằng vải bông chần, rất oai vệ, mới tinh và được ướp hương bạc hà. Người ta mặc nó khi trời lạnh. Gọi là áo choàng poncho (Loại áo choàng khoét lỗ ở giữa để chui vào) thì không chính xác lắm, vì loại áo này hoặc tròn, hoặc có hình bát giác, có đường xẻ chạy dọc từ cổ xuống chân áo. Gọi là áo choàng không tay thì nghe kiểu cách quá mà người ta lại tưởng nó có mũ chum. Thôi, tôi cứ gọi nó là áo choàng manta (Loại áo choàng của phụ nữ Hopi (một dân tộc bản xứ châu Mỹ), chỉ là một mảnh vải khoác lên người) vậy. Chiếc của tôi được viền những đường trang trí hình móng vuốt lồng vào nhau, màu đỏ và đen, giống áo của tất cả các k’iik khác nhà Đại Bàng. Cái khung bên trong làm bằng một loại tre nào đó, nhưng bên ngoài thì được quấn một lớp sợi da hươu dệt thành chữ tên tôi và các ký hiệu phả hệ. Bác thợ cả của Cá Sấu 12 đã phải thức trắng hai đêm để làm khâu ấy. Sau đó, các k’iik còn lại, mỗi người đều đứng lên tặng tôi một thứ gì đó: một đôi dép đế cao su tinh xảo, một đôi khuyên tai hình ống, một bộ dây đai bằng da hươu, một chiếc vòng tay phải màu đen, một bộ hai mươi mũi tiêu dùng cho ống xì đồng, đầu gắn những quả thông non nhỏ xíu để tránh tai nạn, một chiếc mặt nạ đi đường, một lọ thuốc độc ngoài da, một lọ thuốc độc nữa – loại này phải uống, một cái túi để tôi đựng những vật dụng cá nhân lặt vặt, một tấm chăn trơn, nói chung là tất tần tật đủ thứ, chỉ thiếu có con chim đuôi seo đậu trên cành lê gai nữa thôi. Cuối cùng, Sọ Đá Quý 2 trao cho tôi một cây lao có gắn lông đại bàng ở mối nối mũi lao, điều đó có nghĩa rằng tôi không chỉ là một lính thổi ống xì đồng, tôi còn là thành viên đội vệ sĩ của gia tộc. Hai người phu kiệu bước vào giữa vòng tròn, nâng Sọ Đá Quý 2 lên vai, quay khắp bốn hướng rồi khởi hành theo hướng đông, xuống đồi. Ngay khi họ đi khuất tầm mắt, chúng tôi sẽ được tuỳ ý giải tán. Các k’iik đứng dậy và chỉnh trang lại. Thằng đầy tớ riêng của tôi tiến lại chỗ tôi và cúi gập người như một quả bóng, quỳ lạy. Đây là lần đầu tiên tôi gặp nó, nhưng tôi biết cái tên tạm thời trước khi chính thức trở thành k’ikk của nó là Cứt Ta-tu. Nó mười ba tuổi. Có lẽ tôi nên gọi nó là cận vệ thay vì đầy tớ – chỉ có điều gọi thế nghe cứ như tôi đã được phong tước tương tự hiệp sĩ haysamurai rồi, mà có phải đâu. Chưa thôi. Có lẽ tôi nên gọi nó là phụ tá riêng, nhưng gọi như thế lại không thể hiện được phận sự mua vui của nó. Ừm… thực ra, tôi thấy hơi ngại nên không muốn dùng cái tên mà ở đây người ta gọi nó và những thằng đầy tớ khác. Nhưng vì chúng ta đã đi được cùng nhau đến đoạn này của câu chuyện rồi nên tôi nghĩ tôi có thể huỵch toẹt ra. Chúng được gọi là các a’anat – “bọn liếm dương vật”. Nguyên nhân là khi tham gia một trận đánh, hay một chuyến đi săn, haynhững sự kiện tương tự, anh không được phép quan hệ tình dục với bất cứ ai hay bất cứ thứ gì vì chuyện đó có thể làm xẹp mất sự đàn ông của anh, và tệ hơn, mùi của nó có thể dẫn đường cho các uay đi thám thính của kẻ thù, và tệ hơn nữa, nếu anh để lại tinh dịch quanh “lỗ” của một người lạ, kẻ thù của anh có thể vớ được và dùng nó để reo rắc ghẻ lên người anh. Thế nhưng, hầu hết các k’iik tham gia đánh trận, hay đi săn, hay theo đoàn lữ hành thường là đàn ông, tuổi từ mười bốn đến hai mươi. Cho nên các bạn có thể hình dung được cái luật lệ kia đối với họ thật hà khắc. V́ vậy, thỉnh thoảng, những thằng bé tập sự này phải chăm sóc thú vui xác thịt cho chúng tôi. Bằng cách đó, chúng tôi giữ được những thứ không nên dây ra ngoài. Và đó là một trong những cái gọi là bí mật của Hội Chiến Binh.

Phù, tôi nhẹ cả người khi trút được cái bí mật ấy khỏi ngực.

Cứt Ta-tu thu vào túi tất cả số của cải mới kiếm được của tôi, cả đến đôi khuyên tai cũng không bỏ sót. Cá Sấu 12 ra hiệu cho tất cả đứng lên. Các k’iikhướng về phía ngôi làng của tổ tiên họ để chào tạm biệt và tôi cũng bắt chước họ, cảm giác ngượng ngập cứ như ngày đầu tiên đến trường, rồi theo họ bước qua cổng lễ dựng tạm.

Không trao đổi với nhau lời nào, chúng tôi kéo nhau rời đỉnh đồi xuống sườn phía đông bằng phẳng. Một hàng dài lính hầu – hay có thể gọi là người giúp việc – hành lý gọn ghê, đứng chờ sẵn sàng trên con đường mòn mới tưới nước, theo đội hình hành quân:

– Sáu trinh sát tiền trạm

– Bốn người canh chừng rắn, xách theo bầu tưới nước, lục lạc và những cây chổi lớn giống như chổi cời lá

– Hai người đưa tin với cây sáo gỗ dài buộc vắt qua vai

– Bốn trinh sát cánh.

– Mười phu kiệu vác sau lưng những cái giá lớn đan bằng liễu gai, nhìn như những cái địu trẻ con to tướng

– Chín phu khuân vác phụ trách ba chiếc xe cáng

– Năm phu khuân vác đi riêng lẻ, mỗi gã đeo trên lưng một cái thúng lớn hình trụ tròn, được giữ bằng một sợi dây quàng qua trước trán. Họ vác những đồ dự trữ khẩn cấp, phòng khi chúng tôi mất những chiếc xe cáng

– Hai gã – hai anh em – đến từ một thị tộc nhỏ, nói một thứ tiếng xa lạ khó hiểu, có nghề cha truyền con nối là mua, mang vác, làm sạch và phân phát nước uống

– Một “hàm nhai”, tức người kiêm công việc nấu nước, nếm đồ ăn và bào chế thuốc

– Hai tên dắt chó, mỗi tên phụ trách mười lăm con chó thịt và mười con chó săn

– Bốn tên tiện dân cực kỳ thấp hèn mà tôi xin gọi là “bồi”, hay “bồi xua rận” thì chính xác hơn, vì công việc chính của chúng là xua rận rệp.

– Một thợ may, hoặc gọi là hầu phòng cũng được

– Một thợ làm dép

– Một thợ làm mặt nạ. Hắn phụ trách toàn bộ y phục chứ không chỉ là mặt nạ

– Hai thợ làm vũ khí, hoặc có thể gọi là thợ rèn lao, phục vụ cho Cá Sấu 12

– Một tên hầu nhóm lửa, mang theo những viên đá lửa, dũa và một giỏ than hồng ủ sẵn

– Một thợ làm dép riêng cho bọn người dưới

– Một đầu bếp riêng cho bọn người dưới

– Bốn tên tiện dân hạ đẳng. Hai tên dắt theo hai mươi con chó, chuyên hót phân. Nhiệm vụ duy nhất của những con chó này là ăn hết phân chúng tôi thải ra để kẻ thù không thể vớ được và dùng nó để nguyền rủa chúng tôi. Hai tên còn lại là nacam – một dạng thầy tế – chúng đứng tách riêng sang bên cạnh, như hai con quạ đứng chờ đàn kền kền bỏ đi để ăn nốt cái xác thối. Chúng sẽ làm mọi công việc giết chóc cần thiết, kiêm dọn dẹp xác chết. Bốn tên này, và phu khuân vác của chúng nếu có, sẽ phải ngồi riêng thuyền khi qua s ô ng hoặc đi cách chúng tôi bốn mươi bước, hơi dẹp sang một bên để khỏi làm ô uế đường đi

– Chín tên lính lưu tinh. Bốn trong số đó là lính hầu chạy việc vặt. Năm tên còn lại là “người đưa tin bốn ngày”, tức là những người đưa tin bí mật, đặc biệt giỏi, có nhiệm vụ mang tin tức và Bụi của cờ Hiến tế từ Teotihuacan về cho Sọ Đá Quý 2. Họ nói năm gã đó có thể chạy liền bốn ngày bốn đêm, cứ hai người ngủ thì được những người còn lại thay phiên cõng trên lưng. Tuy nhiên, tôi chắc chắn đấy chỉ là sự phóng đại.

– Cuối cùng là một toán vệ sĩ gồm bốn người. Ba người sẽ đi lùi hẳn phía sau để canh chừng những cái đuôi bám theo. Người còn lại đi áp sát đoàn hơn để đảm bảo rằng không ai đánh rơi thứ gì, dù chỉ là một hạt cườm gài tóc. Hắn cũng sẽ rải ớt bột sau lưng chúng tôi để xoá dấu vết, việc này có tính chất nghi lễ, nhưng cũng phần nào xoá bớt mùi khiến kẻ thù không thể đánh hơi.

Tổng cộng một trăm hai mươi cái đầu, không kể chó. Tính ra, mỗi k’iik có tới năm mươi người giúp việc, mà họ thực ra cũng chưa phải quý tộc hạng nhất gì. Nhưng Sọ Đá Quý 2 muốn phải đi một đoàn đủ đông để chặn kẻ địch từ xa cho tôi có cơ hội chạy thoát nếu bị tấn công, nhưng cũng không quá đông như một đội quân kẻo nhìn chết khiếp.

Tất cả im bặt. Hàng ngũ như xiết chặt lại.

Mưa Chết 18 ra hiệu. Mười chín k’iik và tôi – hay tôi nghĩ tôi có thể hãnh diện mà nói rằng “hai mươi k’iik chúng tôi” – lặng lẽ vào vị trí của mình ở giữa hàng, đi đầu là Cá Sấu 12 và đi cuối là k’iik cấp thấp thứ 2 từ dưới đếm lên. Tôi là k’iik cấp thấp nhất nhưng được phá lệ đứng giữa, sau Hun Xoc và cạnh Tay 2. Hai mươi mốt thằng đầy tớ riêng xếp hàng sau chúng tôi.

Được rồi, – tôi nghĩ bụng, – biến khỏi chỗ này và bắt tay vào chiến dịch thôi. Ta cùng đi trên con đường vàng đến Tamoan nào.

Cá Sấu 12 ra hiệu cho một tên lính lưu tinh. Hắn chạy lên phía trước. Rất lặng lẽ, không một tiếng xôn xao, đoàn người chuyển động và tiến lên phía trước êm như một con tàu điện từ lướt ra khỏi ga, đến một tiếng hơi nước phun xì xì cũng không có. Đàn chó chạy lon ton bên cạnh cũng không một tiếng ủng oẳng. Ngay cả lũ chó non cũng không nghĩ đến chuyện sủa trừ khi được lệnh canh gác. Chỉ có vài tiếng kẽo kẹt của những chiếc xe cáng và một hai tiếng cót két phát ra từ một trong hai trăm bốn mươi chiếc dép xăng đan đã được tra dầu. Chúng tôi đi xuống một loạt dốc núi được đẽo bậc thang, thẳng hướng đông bắc tới một thung lũng được cấy cầy. Nhịp chân nhanh gần như chạy bộ. Thực ra, chúng tôi còn có thể đi nhanh hơn, nhưng cần phải tỏ ra bình thường.

Con đường chạy men theo bờ phải của một lòng suối cạn gần đến đáy, cứ đi được bốn mươi sải tay, chúng tôi lại phải nhảy qua một rãnh nước tưới tiêu dẫn vào một cánh đồng ngô mới đốt, thửa đất cháy đang há cái miệng khát khô chờ mưa. Hai thửa ruộng bị bỏ hoang từ những vụ trước, rồi lại một thửa được đốt. Thỉnh thoảng, trên các cánh đồng, cũng bắt gặp những kho chứa thóc tạm mới dựng dở được cái khung. Một vài thửa vẫn còn đang cháy âm ỉ, nhưng cây cối trong những dải vườn nuôi tằm xen giữa các cánh đồng ngô vẫn được giữ nguyên bộ lá, không có dấu hiệu nào chứng tỏ ngọn lửa vượt quá tầm kiểm soát. Việc đốt ruộng đã xong xuôi mà không gây tai nạn đáng kể nào cho các khu làng Đại Bàng. Đó là một điềm, một dấu hiệu tốt đẹp cho thấy, bất chấp những rắc rối đang gặp phải, Sọ Đá Quý 2 vẫn điều hành công việc hết sức trôi chảy.

Hình như chúng tôi đang đi xa dần khỏi thành phố. Tôi thấy thoải mái. Có lẽ mọi chuyện đang ổn thoả dần. Dù sao chúng tôi cũng có trong tay một kế hoạch, hay ít ra cũng là mấy cái gạch đầu dòng của một thứ gọi là kế hoạch. Ngay khi thu xếp ổn định ở Teotihuacan, tôi sẽ tìm cách diện kiến với công nương Koh. Sọ Đá Quý 2 và tôi đã nhất trí rằng tôi sẽ không nói thật với bà ta tôi là ai – tức là không tiết lộ về Jed (chuyện ấy thì đằng nào bà ta cũng không tin), thậm chí không nhắc gì đến Chacal, nếu tôi có thể kìm được. Thay vào đó, tôi sẽ cố giản lược câu chuyện nhưng vẫn phải được thu hút được sự chú ý của bà ta. Tiếp đến, tôi sẽ thuyết phục bà ta rằng tôi biết Teotihuacan chẳng mất chốc nữa sẽ sụp đổ và bà ta nên để chúng tôi đưa đi khỏi thành phố. Hoặc nói theo ngôn ngữ của ngành hành pháp và nghề gián điệp, tôi sẽ phải khiến bà ta quay sang phe mình. Ngay khi bà ta cho chúng tôi biết các thành phần của chất ma tuý dùng trong trò chơi, và ngay khi tôi ghi lại được cách pha chế, tôi sẽ phải đội đưa tin bốn ngày gửi về cho Sọ Đá Quý 2. Đổi lại, ông ta sẽ chôn giúp tôi một chiếc hộp đá niêm phong kín, đựng một mẩu ma tuý và những ghi chép của tôi về cờ Hiến tế. Chiếc hộp sẽ nằm chính tâm một hình chữ thập bằng sắt từ để đội của Marenac có thể tìm thấy. Đến lúc đó, tôi có thể coi nhiệm vụ của mình đã căn bản hoàn thành. Các dữ liệu sẽ được chuyển về năm 2012 và nhóm Chocula sẽ nâng cấp trò chơi, xác định tên doomster và thế giới sẽ quay về nhịp sống bình thường và thiên hạ sẽ được sống cho đến ngày cuối đời.

Tất cả mọi người, trừ tôi, vì tôi sẽ vẫn kẹt lại ở đây. Tuy nhiên, đó chính là lý do vì sao có giai đoạn 2. Khi tôi trở về Ix, Sọ Đá Quý 2 sẽ dùng việc sản xuất ma tuý dùng cho trò chơi làm con bài để mặc cả. Nếu ông ta kiểm soát được nguồn cung cấp thứ thuốc này, tất cả những người đếm mặt trời chín sọ sẽ phải đến với ông ta. Và nếu ông ta chế được một mẻ thuốc hiệu nghiệm hơn. Răng Ngạnh 7 sẽ có thể đấu lại được Gió Lốc 11 của nhà Mèo Rừng. Mặc dù tôi không chắc lắm chuyện đó, vì tôi cho rằng Răng Ngạnh 7 chẳng tài giỏi đến mức ấy. Có lẽ ý của Sọ Đá Quý 2 là ” ngay cả Răng Ngạnh 7 cũng có thể đấu lại được”. Dù sao, nếu Sọ Đá Quý 2 có thể tự đưa mình lên ngôi K’alomte’, hay chí ít là xua tan mối đe doạ từ phía nhà Mèo Rừng, và nếu tôi kịp trở về, chúng tôi sẽ thực hiện lại một việc, có điều phải dùng một cái hộp đá lớn hơn và tinh xảo hơn, vì cái xác tôi cũng sẽ nằm trong đó.

Đương nhiên, tôi không rõ vì sao Sọ Đá Quý 2 nghĩ tôi có thể làm nổi việc này. Có lẽ một khi rời khỏi Ix, không bị kìm kẹp nữa, tôi có thể phát huy tốt nửa kia của mình. Chắc Sọ Đá Quý 2 cho rằng nếu tôi đã làm được đến thế – đến được đây, thậm chí chui được cả vào đầu ông ra – thì ông ra cũng nên cho tôi một cơ hội. Và ông ra biết tôi có động cơ trong sáng. Ngoài việc gửi những thứ cần thiết về năm 2012, tôi không hề có tham vọng cá nhân nào khác ở đây, vì tôi cũng không còn sống được bao lâu nữa. Và cũng chẳng còn nơi nào khác để đi. Tôi nằm trong tay ông ta. Hơn nữa…

�cái gì thế kia?

Cặp mắt tôi tự động đảo quanh, như tai loài hươu, để rà soát động tĩnh. Chỉ là mấy con sóc trên cành cây. Tiếng chim bắt muỗi kêu o o. Con đường thu hẹp lại thành một vệt đường mòn. Lúc này, chúng tôi đã cách xa khu làng mạc, nhưng vẫn còn trong khu vực săn bắn dành riêng cho các k’iik của thị tộc Đại Bàng. Lối mòn mỗi lúc một ngoằn nghoèo hơn, uốn vòng quanh những thân cây khổng lồ. Ngay cả cặp mắt của Chacal cũng chẳng nhìn được mấy tí dưới ánh sao lờ mờ này, nhưng hai bàn chân tôi vẫn tự tìm được đúng vết mà chân người đi trước đã dẫm lên. Bất cứ kẻ nào bám theo chúng tôi cũng sẽ không xác định nổi chúng tôi có bao nhiêu người qua những vết chân. Và bất cứ ai trong khu rừng này – thợ đặt bẫy thú, tên buôn lậu hay gián điệp, ví dụ thế – nếu không tình cờ đi thật gần con đường thì sẽ không nghe thấy một tiếng động nào hết. Hấp. Hấp. Qua lần da hươu, cói đan rồi đến cao su của đôi dép săng-đan mới hãy còn cứng đơ, tôi có thể cảm thấy cỏ lau bị xéo nát dưới chân. Chúng tôi đi qua ba ngôi làng nhỏ xíu, tất cả đều nằm dưới sự cai quản của thị tộc tôi. Sau khi qua ngôi làng thứ ba, Hun Xoc đi tuột lại phía sau và kéo tôi ra khỏi hàng. Hai trong năm k’iik vóc người bằng tôi và ăn mặc giống tôi để đảm bảo an toàn (ý tôi là an toàn cho tôi) cũng đi chậm lại. Hun Xoc thì thào với tôi rằng đầu gối tôi vẫn cần thời gian để lành lại sau khi tải các mép trai. Tôi đáp rằng chúng ổn rồi. Nó sờ thử đầu gối phải. Máu đang rỉ ra. Nó bèn ra hiệu cho mấy tên phu khiêng kiệu. Bốn tên bước ra khỏi hàng và quỳ xuống. Bốn người chúng tôi leo lên ngồi trên những chiếc ghế nhỏ, chân quặp quanh hông tên phu kiệu. Tên khiêng tôi đứng lên, đưa tay giữ lấy đầu gối tôi, ép nó chặt vào hai bên lườn hắn và chạy nhanh lên phía trước, tìm lại vị trí của tôi trong hàng và hoà cùng nhịp bước của cả đoàn.

Sau mười tám dặm tính từ điểm xuất phát, con đường rẽ về hướng bắc, ra khỏi vùng cao nguyên, xuống bãi cây bụi hoang vu và chạy thẳng vào một bức tường cây lá tối om. Có tiếng ầm ì phía trước, tiếng ngáy của Ông Bác Đường Vàng, dòng sông chảy về hướng bắc, tới sa mạc mặn mặn và rìa trắng của thế giới.

41

Chúng tôi nối đuôi nhau xuống đồi, lọt vào một thung lũng tối đen nơi con sông cuộn chảy ào ào. Đoàn người đi chậm dần và tập họp lại gần nhau. Tôi là một “gói ngọc bích”, nghĩa là “người cần bảo vệ”, cho nên có tới năm k’iik vây kín lấy tôi, nhưng qua khe hở giữa họ, tôi vẫn còn thoáng thấy những căn lều của người chèo đò in bóng xuống một dải nước xám đục. Con sông này về sau sẽ có tên là Río Sebol, còn bây giờ, nó được gọi là Ka’nbe – Đường Vàng. Ở quãng này, sông rộng chưa đầy ba mươi sải tay, và chỉ cao hơn mức nước cạn vào mùa đông một chút, xem ra chỉ đủ cho rất ít thuyền bè qua lại, thế nhưng, bờ bên này neo tới gần bốn mươi chiếc thuyền mười người. Trong vòng chưa tới ba mươi phút, đám người hầu đã tháo dỡ xong đồ đạc trên xe cáng, bọc chúng vào những tấm vải tráng cao su và theo chỉ dẫn của những người lái đò, chất chúng xuống lòng thuyền. Không có lấy một ánh đuốc. Nhưng tôi đoán họ có thể làm xong việc này ngay cả khi mắt mũi bị bịt kín.

Đám phu khuân vác đập nát những chiếc xe cáng. Chúng tôi tháo dép xăng đan. Cá Sấu 12 dâng cúng một gói lễ vật cho một tảng đá lớn được coi là nơi trú ngụ của uay của con sông. Những người chèo đò đỡ chúng tôi xuống thuyền. Các k’iik ngồi trên năm chiếc đi gần cuối, cách hai chiếc chặn hậu khoảng mười thân thuyền. Mỗi chiếc chở tám người, bốn k’iik và đầy tớ riêng của họ ngồi giữa chủ thuyền – hắn đứng trên một mảnh ván chìa ra trước mũi thuyền với một cây sào dài trong tay – và người đứng lái ở cuối thuyền. Họ xếp tôi ngồi trên chiếc thuyền áp chót, là vị trí an toàn nhất. Khi tôi bước vào, lòng thuyền lún xuống dưới chân tôi. Nó không được đóng bằng gỗ mà được đan, hay đúng hơn, được bó bằng thân sậy. Rất nhiều cảm giác thay đổi trạng thái khi bước xuống một không gian nổi bập bềnh với những định luật cơ học riêng. Chúng tôi tách bến bơi xuôi dòng. Những ngôi sao mờ dần khi mây kéo tới, và chúng tôi chìm trong bóng tối mờ ảo, có phần đáng sợ hơn. Tuy thế, những người lái đò vẫn không thắp ngọn đuốc mà họ thường cắm ở mũi thuyền, cứ dựa vào cảm giác và ánh le lói thi thoảng lóe lên từ những đám nấm gỗ phát sáng và những con đom đóm để chống thuyền lướt đi. Những cặp mắt sáng lóe chớp chớp giữa những thân cây vô hình, mắt khỉ, mắt gấu trúc, mắt cú, và người ta có thể tưởng tượng ra cả mắt báo nữa. Thuyền chúng tôi bơi qua những tiếng rột roạt khe khẽ nhưng râm ran, và tôi nhận ra đó là tiếng lũ sâu bướm đang nhai lá cây, qua những quãng phát ra âm thanh ken két chói tai của hàng trăm loài bọ cánh thẳng, át hết những tiếng động khác, rồi qua nơi bầy ễch ương nghiến răng, hệt như những chiếc máy kéo cổ lỗ sĩ chạy bằng dầu đi-ê-zen rít lên ầm ầm mà vẫn không khởi động được, thứ âm thanh này, trong ký ức thời thơ ấu của tôi, tức là của Jed, mang một thông điệp vô cùng hân hoan rằng “SẮP MƯA RỒI”, và nhắc đến chuyện này…

Chính nó rồi. Nó chính là thứ mà tôi cảm thấy thiêu thiếu khi ở đây cùng Marena vào năm 2012.

Chúng tôi không thể tuyệt chủng được, – tôi nghĩ thầm, – phải vậy không?

Cũng có thể đấy. Cái thứ PAH (Một nhóm chất độc gây ô nhiễm môi trường) ấy cũng độc lắm chứ chẳng phải vừa. Mẹ kiếp.

Ngay cả giữa những tiếng ồn này, đôi tai của Chacal vẫn nghe thấy điều gì đó không ổn. Có lẽ nó hơi quá ầm ĩ. Hoặc âm sắc không đúng. Hoặc do thiếu tiếng cú kêu. Loài cú khá tinh khôn. Chúng rất nhạy cảm với thời tiết, chúng biết vụ phun trào đã làm đảo lộn điều gì đó.

Các k’iik chắc cũng cảm nhận được điều ấy. Trong bước chân của họ có sự căng thẳng bất thường… và không chỉ với tôi. Cũng không chỉ vì căng thẳng chính trị. Ai nấy đều thực sự âu lo hơn bình thường. Vụ động đất khiến mọi sinh vật cũng lo lắng. Những cơn địa chấn! Vào thời này, chúng được coi là những con quái vật khổng lồ dưới lòng đất.

Khi dòng sông mở rộng hơn, chúng tôi gặp các đoàn thuyền khác, vài thuyền có thắp nến bấc ở đằng mũi, và trước lúc trời hửng sáng, chúng tôi đã hòa vào một dòng thuyền buôn tấp nập ngược xuôi. Chúng tôi bơi nhanh hơn và vượt vài tá thuyền khác. Thỉnh thoảng, tôi lại nghe tiếng Cá Sấu 12, ngồi trên chiếc thuyền gần đầu, quát những người đánh cá thu lưới ở giữa dòng lại. Trời vừa rạng là lúc Đường Vàng gặp Đường Xám – dòng sông sau này được gọi là Río San Diego – tại thành phố Quảng Trường Luôn ồn ã mà tàn tích của nó được biết đến với cái tên Tres Islas. Cũng như Tyre (Một thành phố của Libăng), đô thị nhỏ này phát triển quá mức, tràn ra cả ngoài bán đảo, những ngôi nhà mới xây vươn thẳng lên từ dưới mặt nước. Tôi mường tượng ra những đốm lửa không bao giờ tắt trên ô cửa cao của các kim tự tháp nhỏ và cảnh những người quét rác lui cui trên quảng trường chợ không một bóng cây, được thắp sáng bởi những ngọn đuốc treo cao hệt như đèn đường. Dưới ánh nắng ban ngày, nước có màu sắc và vẻ thô ráp như tấm vải lót sàn tã nát trên con tàu chiến, hai bên bờ nối tiếp những vườn cây ăn quả sapote (Từ trong tiếng Nahuatl dùng để chỉ chung các loài hoa quả như trứng gà, hồng xiêm và một số loài cây ăn trái bản địa Trung và Nam Mỹ khác) xanh non đơn điệu, xen lẫn các halach yotlel – những vựa thóc kê cao và giá phơi – nửa đóng nửa đan bằng cành cây. Đến giờ một-phần-mười-ba thứ hai trong ngày. Đường Vàng hòa vào một con sông rộng và chảy xiết hơn, sông Ayn Be – Đường Cá Sấu – sau này là sông Río Paisión. Xa xa thấp thoáng mộtt thành phố có tên Chakha’, nghĩa là “Nước Đỏ”, tức El Ceibal ngày nay. Vô số lâu đài và nhà kho một màu trắng xóa, nằm chen chúc trên một quả đồi hình khom khom, chẳng khác gì một đống đường thỏi chồng chất hỗn độn khiến người ta khó mà phân biệt được ngôi nào là xây, ngôi nào là đẽo thẳng vào đá nguyên khối. Thành phố biến mất khi con sông uốn khúc chạy về nam. Khi bắt đầu nghe thấy tiếng nước xiết sủi bọt phía trước, những người lái đò cho thuyền dừng lại bên một bờ sông được lát đá, một tốp phu dỡ đồ xuống, nâng những chiếc thuyền lên quá đầu và chạy theo con đường dọc bờ sông. Khi các phu kiệu nâng tôi lên và chạy theo họ, tôi thoáng nhìn thấy một thác nước giữa những túp lều và những ngôi nhà lớn có hàng cột, nó chảy thành từng dòng đều đặn một cách kỳ lạ trên những nề đá vôi được chạm khảm. Hun Xoc nói đó là tháp hiến tế mà những người bùn đã xây dựng vào mặt trời thứ ba. Chúng tôi lao nhanh qua một quãng nước xiết, đến khúc sông mà chúng tôi gọi là Đường Trắng Của Khỉ Rú Lớn, chính là Río Usumacinta ngày nay.

Người ta gọi Río Usumacinta là sông Nile của người Maya. Nhưng sông Nile chảy tương đối thẳng, qua những vùng sa mạc phẳng phiu và dâng lũ theo chu kỳ khá đều đặn. Trong khi đó, Usumacinta chảy vòng vèo quanh núi non, qua nhiều hang hẻm, sau đó mới mở rộng ra và chảy chậm lại khi băng qua vùng đất thấp, uốn thành những khúc dài. Dù vậy, ở một vùng đất không bánh xe, không ngựa, thậm chí không lạc đà như thế này, nó vẫn là lựa chọn duy nhất để chuyên chở.

Bình minh lại lên, chậm chạp ì ạch mãi với một màu tím hoa cà thẫm đục. Màu sắc đó có nghĩa rằng những đám mây trên đầu chúng tôi không phải là mây như ngày thường. Đó là tro từ núi lửa San Martín. Một-phần-mười-ba thứ hai, Pa’Chan – “Đổ Trời” – tức Yaxchilán, xuất hiện bên tay trái chúng tôi. Thành phố trải rộng trên một triền dốc nằm chính giữa điểm uốn khúc của con sông, vì vậy, giống như Constantinople, nó được nước vây kín ba mặt, mặt thư tư được củng cố vững chãi. Mặt tiền của các tòa lâu đài hướng ra sông để trưng ra sự giàu có của các thị tộc. Năm dãy bậc thang rộng chạy theo hình zích-zắc lên một vệ thành gồm năm kim tự tháp nằm trên đỉnh quả đồi lớn nhất. Vị trí này thật hoàn hảo bởi người lạ có thể lại gần, có thể đi thăm quan một vòng men theo khúc quanh nhưng không thể dễ dàng tấn công từ trên mặt nước. Nước ở quãng này chảy quá xiết để cập bờ. Ngay cả khi có chỗ cập bờ thuận tiện và nếu có người dám thử, họ vẫn có thể quăng lưới xuống nước, chặn hai đầu và nhốt những kẻ xâm nhập ở giữa.

Thuyền chúng tôi men theo đường cong cuối cùng của dãy đồi và trôi vào gầm halach be, cây cầu treo lớn dài sáu trăm feet, riêng nhịp ở giữa dài hai trăm lẻ ba feet, với hai trụ cầu hình vuông khổng lồ cao sáu mươi feet, bề ngang chân trụ rộng ba mươi sáu feet. Vào năm 664 này, nó là cây cầu treo dài nhất thế giới; và ở châu Âu không hề có một công trình nào dài đến vậy cho mãi đến năm 1377 khi người ta xây xong cây cầu Charles ở Prague. Ngay phía trước cầu, dọc bờ sông được lát đá, có một dãy bốn mươi tên tù trần trụi, vàng ệch, bị treo trên những cây sào dài nom hệt như bù nhìn giữ dưa. Khi đến gần, tôi mới nhìn rõ đó chỉ là những bộ da được nhồi căng lên, vẫn còn đầy đủ chân tay, nhưng đầu được làm giả, có lẽ bằng vỏ bầu, và chúng có màu vàng như vậy là do được tẩm nhựa cây. Chân tay của những cái xác căng mọng lên và mất hết đường nét, nhìn không khác gì cây xúc xích. Tôi đoán chúng được nhồi bằng phấn hoa ngô, Hun Xoc nói bốn trong số đó là các k’iik của thị tộc Dơi Quỷ ở Ix bị bắt sau một cuộc đột kích bất thành cách đây sáu năm. Trong lúc đó, chiếc thuyền dẫn đầu đoàn chúng tôi đã rẽ vào bờ, và một trong số các k’iik của Cá Sấu 12 nhảy lên. Hắn lội đến chỗ bờ đắp đất cao, leo ba bậc thang xếp bằng thân cây, chạy tới chỗ bốn anh bạn nhà Dơi Quỷ, thêm một gói đồ lễ của chúng tôi vào đống đồ lễ vật chất cao như núi dưới chân họ rồi quay lại, nhảy lên chiếc thuyền cuối cùng đúng lúc nó sắp bỏ lại hắn. Các k’iik khác huýt gió thật to để hoan hô tán thưởng. Cái đồ phô trương.

Khi chiếc thuyền chở tôi đi vào dưới gầm cầu, tôi thấy như có tuyết rơi xung quanh. Tôi ngẩng đầu lên. Quãng này, lòng cầu cao hơn đầu chúng tôi mười lăm feet và rộng mười feet, được giữ bởi một sợi chão đôi dày phải đến sáu inch. Một dãy đàn ông và một nhóm thiếu nữ quý tộc – điều này rất khác thường – đang đứng trên đó quan sát thuyền bè qua lại. Một cô gái khác lắc lắc chiếc giỏ trong tay, rải xuống những chiếc thuyền bơi qua bên dưới một thứ màu trắng cuốn theo gió thành một đường xoáy dài. Hun Xoc liều lĩnh nhoài người ra khỏi mép thuyền, bắt được một bông và ăn lấy may. Đó là bỏng ngô.

Bên tay phải chúng tôi, những tòa nhà lớn dần lên và rốt cuộc, tôi nhận ra chúng tôi đang nhìn thấy kẻ kình địch lớn nhất của Yaxchilán, thành phố Yokib’. Người ta còn gọi bằng cái tên “công chúa của các thành phố châu báu”, và rất lâu sau này, nó sẽ được gọi là Piedras Negras, Yokib’ có nghĩa là “Lối vào” hoặc “Ngưỡng cửa”, nơi được cho là có lối hang dẫn xuống thẳng sân bóng hông lớn của thế giới âm phủ Xib’alb’a. Màu của Yaxchilán là màu hồng đào, Ix – màu xanh ngọc bích, còn Yokib’ là màu vàng. Thực tế, cả thành phố này là một màu vàng rực gay gắt, gần giống hệt màu vàng cam Bloxx, lại được viền những dải màu đen khiến nó rất khó nhìn, ngay cả ở dưới ánh sáng nhợt màu tro, có độ khuyếch tán rộng như thế này; một thung lũng được họa theo hình khối với những ánh sáng bóng và nhoáng ướt như được họa bởi bàn tay của Bridget Riley (Họa sĩ người Anh, một trong những người đi tiên phong trong nghệ thuật ảo thị). Kim tự tháp lớn nhất tuyền một màu vàng, một bề mặt dốc nhô ra giữa khoảng sáng lập lòe, trên đó, những người thợ lui cui bò toài, dùng những mảnh giấy sáp ong dính như vữa xi măng để trát lại các bức tường. Tôi phỏng chừng lớp tường ngoài cùng của kim tự tháp được xây cách đây một k’atun, bằng vôi nghiền từ xương của hàng ngàn tù nhân họ bắt được khi làm cỏ tận gốc hai thành phố thù địch, tương tự Lâu Đài Máu Và Bùn ở Dahomey (Tức cộng hòa Benin, một nước thuộc châu Phi ngày nay). Tôi đếm được năm mươi tư cái đầu lâu bày ở cửa sông. Con số đó không nhiều nhặn gì, vả lại nhìn còn mới đến mức tôi đoán chúng được làm giả bằng gỗ. Nhưng, khi đi ngang qua, tôi mới thấy những cái cũ hơn, đặt trên các ngăn giá thấp hơn, đã nhăn nhúm lại. Như thế có nghĩa chúng là thật, nhưng đã được làm sạch, ngâm muối, căng trên khung bằng đất sét, phết dầu, trang điểm và thậm chí được che đậy khi trời mưa. Tên tuổi và ngày bị bắt của từng người được xăm trước trán, có lẽ từ lúc còn sống; chỗ miệng bị khâu kín được làm phồng lên sao cho giống với người sống thật; con ngươi được thay thế bằng đá trắng tinh, vì vậy, nom cứ như chúng đang nhìn trừng trừng vào anh vậy. Có lẽ óc, lưỡi và các bộ phận khác đã bị rút ra ngoài qua đỉnh đầu, để chúng khỏi thối rữa, ít ra nhìn chúng cũng không rúm ró như cái đầu ở Yaxchilán, hay như những cái họ vứt cho giòi bọ ăn ở Temple Bar (Khu vực được bảo tồn từ thời trung cổ ở thành Dublin, Ireland) và cứ nằm phơi ở đấy cho tới tận năm 1746.

Ngoài những lúc lên bờ đi bộ qua những đoạn không bơi được, chúng tôi không hề rời thuyền nghỉ đỗ, dù chỉ lấy nước uống. Các thuyền bán hàng rong bơi lại gần, chúng tôi mua những thứ cần thiết và lại đi. Nước tiểu được bọn hầu hót phân đổ ra ngoài thuyền còn phân thì cho lũ chó ăn. Chúng có vẻ thích món ăn này. Có lẽ chúng thuộc một loài đặc biệt, có thói quen lạ bẩm sinh. Tiếp đó, cứt chó lại được bọc vào lá tai voi và chuyển sang thuyền của những gã làm nghề hót phân trên sông, chúng luôn được họ tống bởi hàng đám mây ruồi. Mấy tên lính lưu tinh cứ phải chạy hộc tốc lên bờ, trước đoàn thuyền, để đảm bảo luôn có một tốp phu trực sẵn ở đoạn nước xiết tiếp theo. Ở thế kỷ hai mốt, người ta lúc nào cũng ca cẩm, nào là “ôi chao, chẳng còn lấy một tí thì giờ”, nào là “cuộc sống hiện đại nhanh đến chóng cả mặt”, nào là “không như những ngày xưa, khi chưa có điện thoại di động, chưa có TV”, vân vân và vân vân. Nhưng nếu tôi có học được điều gì ở quá khứ thì đó là ở đây người ta cũng không thư thả gì hơn. Kể cả anh có là cô tiểu thư quý tộc hoang tưởng, anh cũng luôn phải vội vã chuẩn bị để sẵn sàng trước khi ai đó đưa anh đi chơi. Hạn chót luôn là hạn chót. Như tôi nghĩ tôi đã nhắc đến một đoạn nào đó, rằng vào ngày mồng 1 tháng 5 theo cách tính của chúng ta sẽ có hiện tượng nhật thực. Sọ Đá Quý 2 nói những người Teotihuacán có thể sẽ phong tỏa biên giới từ trước đó năm ngày, vào ngày Chết 6, Nai đực 14, tức là chỉ còn hai mươi ngày tính từ hôm nay. Vào ngày đó, toàn thể dân chúng của Teotihuacán Lớn sẽ bắt đầu cử hành việc “im lặng”, không ai được vào hoặc ra khỏi thung lũng cho đến khi mặt trời quay trở lại chu kỳ bình thường của nó. Hóa ra, trái với quan niệm thông thường, nhật thực không phải hiện tượng chỉ có giới quý tộc được biết. Mệnh lệnh được ban ra, và khi ngày đó tới gần, mọi người dân cùng tổ tiên của mình đều sẵn sàng thực hiện nghi lễ. Thành phố sẽ đóng băng. Dịp này giống một lễ vọng hoặc nghi thức canh đêm hơn là lễ hội.

Nói tóm lại, vấn đề là Sọ Đá Quý 2 nói chúng tôi sẽ đến được Teotihuacán trong vòng hai mươi bảy ngày, còn tôi thì cho đó là một kế hoạch hão huyền, ý tôi là, chặng đường dài những 658 dặm. Vì chúa! Mà đấy là nếu anh bay được theo đường thẳng như chim đây. Chứ nếu đi bằng ôtô, quãng đường sẽ là 1250 dặm, chỉ tính trên đường cao tốc. Và vào thời này, chúng tôi không có ôtô, đến cái bánh xe cũng chẳng có. Con ngựa gần nhất thì tận Ireland. Tôi nhớ mang máng một chuyện rằng quân đội của Napoleon từng hành quân được 275 dặm trong vòng hai mươi ba ngày trên đất Áo và đó đã được coi là kỳ tích. Tuy nhiên, quan đội thì không có phu khuân vác tiếp sức. Những tay lính bộ binh Pháp đáng thương đó phải tự lo lấy từng inchđường đi bằng hai bàn chân của chính mình. Và bất kể vị hoàng đế kia lùa họ đi gấp đến mức nào thì mỗi đêm họ vẫn phải cắm trại nghỉ, chí ít là một chốc. Còn chúng tôi chắc sẽ đi ngày đi đêm, ngủ nghê, ăn uống (chủ yếu là sên sống, thịt gà tây khô và ch’anac, một loại bột ngô trộn với máu chó đóng lại thành bánh), bắt rận, đi vệ sinh và những gỉ những gì nữa có trời biết ngay trên lưng lũ phu khiêng kiệu. Người ta đồn rằng những người đưa tin Inca có thể chạy tiếp sức để đưa thông điệp từ Cuzco (Thủ phủ của đế chế Inca, nằm tại Peru ngày nay) đến Quito ở Ecuado trong vòng chưa đến năm ngày, và quãng đường đó khoảng một ngàn dặm. Phải không nhỉ? Nhưng họ thì nhanh hơn chúng tôi nhiều. Tuy nhiên, nếu một người đi bộ giỏi, mang theo hành lý nhẹ có thể đi được hai mươi dặm một ngày thì chắc chắn chúng tôi sẽ đi được năm mươi nếu đổi được phu khuân vác liên tục. Rồi đến đường thủy… Ờ… đi thuyền hai mươi dặm một ngày là xuất sắc lắm rồi. Nhưng đó là với loại thuyền hai người. Thuyền càng dài đi càng nhanh. Vì vậy, nếu đổi được người chèo thuyền mới từ bờ vào chúng tôi sẽ đi được gần năm mươi dặm một giờ, ngay cả đi trên biển. Cứ tính dư cho chắc, quãng đường chúng tôi phải đi là 1600 dặm. Nếu vậy, lịch trình trên không hẳn đã là không thể, nếu không có trở ngại gì về thời tiết hay những trục trặc khác. Tuy cũng có vẻ hơi vội. Nhưng những anh chàng này quá quen với việc ấy rồi, – tôi nghĩ. Phải vậy không? Và dù sao, Sọ Đá Quý 2 cũng chẳng có lý do gì để lòe tôi chuyện này. Có lẽ chúng tôi sẽ làm được.

Tại một thành phố tên là Nơi Luộc Rùa Cạn 3 – sau này là phế tích Aguas Calientes – chúng tôi bắt gặp đoàn lữ hành đầu tiên của một thị tộc kình địch. Đô thị này dày đặc những công trình đa tầng nằm san sát hai bên bờ sông, với hai cây cầu treo bắc ngang qua đầu chúng tôi và một kim tự tháp của thị tộc cai trị nằm phía bên tay trái, hình dáng kỳ cục, được phủ kín những con búp bê bằng gỗ cao bằng nửa người thường. Tôi đoán chúng là đồ lễ được dâng trong một dịp đặc biệt nào đó. Tất cả đều được chạm khắc rất công phu và mặc đồ sặc sỡ đến mức khiến người ta nhìn rối cả mắt. Một đoàn thuyền lớn và lộng lẫy đang đậu bên một bậc cầu thang dẫn xuống sông ngay dưới kim tự tháp. Hun Xoc nói màu vàng và xanh lục trên cờ hiệu cho biết chúng là tàu của các cháu trai của K’ak Ujol K’inich, ahau của thị tộc Báo Đốm ở Oxwitzá, tức Caracol ngày nay, những kẻ nuôi mối thù truyền kiếp với năm thị tộc lớn của Ix từ hơn bốn k’atun nay.

Mệnh lệnh được truyền khắp cả đoàn rằng các lái thuyền cứ tiếp tục chèo và tất cả phải vờ như không nhìn thấy các Oxwitzá, trừ khi họ hỏi han chúng tôi trước.

Cho đến lúc này, không ít thì nhiều, chúng tôi chào hỏi tất cả các đoàn thuyền đi ngang qua. Những người chèo thuyền vẫy người quen của họ, khi thì rối rít vui vẻ, cũng có khi chỉ là một cái nhún vai phải khe khẽ, tương tự một cái gật đầu. Rõ ràng đoàn buôn của chúng tôi là khách thường xuyên của tuyến đường này, chỉ là lần này hơi vội vã bất thường và trái mùa một chút.

Nhưng thuyền của nhà Báo Đốm lại vẫy chúng tôi nên chúng tôi đành đi chậm lại và lượn đến gần để làm như cũng định chào hỏi họ từ trước. Đến chỗ nước nông, những người chèo thuyền quay đầu mái chèo và biến chúng thành cây sào. Tôi có thể cảm thấy các k’iik trong đoàn đang gồng hết cả người lên, bàn tay của Hun Xoc dịch thêm một inch tới gần những chiếc ống xì đồng và chùy mà nó đã treo dưới mép thuyền. Có gì đâu nhỉ, – tôi nghĩ, – họ bốc mùi thân thiện và chúng ta cũng vậy mà. Nghĩa là thế này, mỗi con thuyền đều có một bức phù điêu hình đầu thú vật gắn ở đầu mũi néo buồm, đó là vị thần bảo trợ cho con thuyền, và từ lỗ mũi của nó thường tỏa ra khói thơm. Mùi nhựa cây keo hoặc bột thuốc lá cháy mang thông điệp rằng “chúng tớ không hề có ý định ẩu đả”. Khi chúng tôi lại gần, tôi nhận ra thủ lĩnh của họ đứng trên chiếc thuyền cuối cùng. Hắn đội trang phục hình đầu mèo cao ngất ngưởng, thân mình tô đen, mặt vẽ trắng xóa. Hắn quan sát chúng tôi một lượt bằng cặp mắt sâu hoắm. Tôi và năm k’iik đóng giả tôi cùng đội mũ rơm hình tròn, rộng vành, giống chiếc nón lá của người Việt Nam. Tôi nghiêng đầu xuống, cố giữ sao cho tư thế không bị dịch chuyển. Chacal từng chơi một trận với đội bóng hông Chuột Lang của Oxwitzá và đánh bại họ. Thể nào chả có một vài trong số những con mèo này xem trận đấu ấy.

Sẽ ổn thôi, – tôi tự nhủ, – không ai để ý đến mày giữa đám này đâu. Giống như mọi cầu thủ bóng hông khác, cả khi chơi bóng lẫn khi lên nhận giải thưởng. Chacal đều đội một cái mũ hình đầu thú che khuất đến hơn nửa khuôn mặt. Ngoài ra, ngay cả trên bức tượng tạc hình anh ta giống nhất, nét mặt nhìn cũng mơ hồ. Với mớ tóc nuôi dài, kiểu ăn vận khác, đầu gối không vết chai sần và sụt cân đến gầy nhom như thế này, không ai có thể nghĩ tôi từng là một người chơi bóng hông, và hy vọng không người ngoài nào nhìn tôi mà liên tưởng ra được Chacal. Sọ Đá Quý 2 muốn tôi tỏ ra ốm yếu và lờ đờ đến mức không ai dám bắt chuyện nhiều. Và dĩ nhiên, tôi không nên nhìn vào mắt ai cả.

Thầy hành lễ của Cá Sấu 12 hát một bài chào mừng. Một người đưa tin nhảy xuống nước, đến trao cho cận vệ của gã mặt trắng một cái gói đỏ đựng thuốc lá, ngọc bích và món bột sô-cô-la đặc sản của chúng tôi.

Im lặng. Nhiều năm qua, Ix đã mất hàng trăm k’iik dưới tay của những gã này trong chiến tranh, một cuộc chiến chỉ như sợi tơ nhỏ trong cái mạng nhện vĩnh cửu của sự trả thù báo oán tồn tại để làm cho thế giới này cứ ì trệ mãi không khá lên được. May thay, nó chỉ là một cuộc chiến giới hạn giữa các cá nhân với nhau chứ chưa lôi kéo tất cả vào cuộc. Chỉ là anh phải để ý đề phòng nếu có kẻ thề sẽ tóm cổ anh, hoặc nếu anh nhỡ giẫm chân lên đất của bọn kẻ cướp. Hay giống như hai băng đảng đi trên phố giữa ban ngày, khi gặp nhau thì một phe tự rẽ sang lề đường bên kia để tránh đụng nhau. Hay có thể nói ở đây giống như Trung Đông, nơi có thể, hay nói đúng hơn là lúc nào cũng có một cuộc chiến tiếp diễn nhưng đồng thời vẫn có những chuyến bay thương mại liên tục cất cánh và hạ cánh, những hàng dài xe du lịch xếp hàng gần biên giới và những người dân đi lại nhộn nhịp ngay giữa vùng tranh chấp.

Nhưng đường đi lại trên sông cũng là một kiểu nhà thờ, bãi chợ hay sàn giao dịch chứng khoán. Chúng là thứ tài sản trung thực sự duy nhất từ một ngàn năm nay. Khi ở trên mặt nước, anh nằm dưới sự bảo trợ của Phù Thủy Ngọc Bích, người đã đào con sông từ những ngày của mặt trời thứ ba, trước cả khi Vẹt Đuôi Dài 7 xuất hiện. Rất hiếm khi xảy ra những cuộc tấn công trên mặt nước và chúng bị coi là vô cùng hèn hạ, không kém ǵ chúng ta khinh vụ gia đình Pazzi (Một gia đình quý tộc ở Florence, đã ám sát Giuliano de’ Medici, ngươi cai trị xứ này vào thế kỷ 15 và được coi là người bảo trợ nghệ thuật) tấn công Giuliano de’ Medici ở Duomo. Bất cứ kẻ nào có hành vi bạo lực cũng có thể bị xé xác, không chỉ bởi những người dân địa phương luôn để mắt canh chừng, mà còn bởi chính những người đồng hành của anh ta. Ngoài ra câu nói khách sáo rằng “bước vào một ngôi làng giàu truyền thống cũng như bước vào phòng khách riêng của một nhà” hoàn toàn đúng ở xứ này. Bất kể anh đang ở đâu, anh cũng là khách của một ai đó, anh và họ bị rằng buộc bởi sự hiếu khách với nhau. Thay vì xuất trình hộ chiếu, tiền vé hay quà hối lộ, anh phải tặng quà và nhận lại những món quà rẻ tiền hơn. Nếu quà của anh không đủ hậu hĩnh, hoặc nếu như anh gây ra bất cứ rắc rối gì, người ta sẽ nhớ cái bản mặt anh và anh sẽ nhận lại đủ, có khi còn tồi tệ hơn.

Cuối cùng, ai đó trên một trong những chiếc thuyền của phe Báo Đốm cũng hát đáp lại hồi khúc của bài hát chào mừng, một người khác đưa cho chúng tôi một gói đựng thứ khỉ gió gì chả biết và chúng tôi lên đường.

– Hắn nhìn anh đấy, – Hun Xoc nói với tôi qua bờ môi khít rịt hầu như không động đậy. Khi chúng tôi ra khỏi tầm mắt họ, thằng bé giúp tôi đeo một chiếc mặt nạ mỏng, năm người đóng giả tôi cũng làm tương tự. Tôi thấy đeo mặt nạ như thế này cứ kỳ cục làm sao ấy. Nhưng thực tế, ở châu Âu, cho đến tận thế kỷ mười chín, người ta vẫn còn đeo mặt nạ. Cả đàn ông lẫn đàn bà cũng đeo mặt nạ khi đi đường, một phần để tránh bụi trên đường, một phần để tránh nhiễm bệnh tật, như mặt nạ phòng độc thời nay, nhưng chủ yếu là để tránh phiền nhiễu. Ngay cả ở Mỹ vào những năm 50 của thế kỷ trước, rất nhiều phụ nữ thường dân vẫn còn đội mũ mạng che mặt. Phải vậy không? Việc này chẳng có gì quá đáng. Vả lại, khái niệm về sự cải trang không phổ biến ở đây. Nếu anh đeo một cái mặt nạ, điều ấy không có có nghĩa là anh đang muốn che giấu chuyện gì mà chỉ là anh muốn bày tỏ lòng kính trọng hoặc muốn làm hiện thân của hình thù trên chiếc mặt nạ. Mặt nạ làm nên con người anh hơn cả chính bản thân anh.

Bị phát hiện chưa phải nguy hiểm lớn nhất, nguy hiểm lớn nhất là một phần của đoàn lữ hành bị chia tách, bị phục kích, bị lợi dụng hoặc cả ba, khi ấy, ai đó sẽ trao thứ gì đó cho kẻ thù và thứ đó cuối cùng sẽ rơi vào tay nhà Mèo Rừng. Hiển nhiên, tất cả các k’iik trong đoàn và một vài người hầu cận của họ biết Chacal không bị giết trong cuộc đi săn hươu. Nhưng họ biết hai trong số cái gọi là vía của Chacal, tức uay và tên bí mật của anh ta, đã rời khỏi cơ thể sau buổi làm phép. Bây giờ, chỉ còn hơi thở của Chacal ở lại, hai vía kia đã được thay bằng vía của tôi.

Sọ Đá Quý 2 đã xoay phắt câu chuyện sang chiều hướng tốt đẹp, đúng kiểu của ông ta, rằng Thằn Lằn Chân Lùn 10 từ đỉnh núi của nhà Đại Bàng đã đến trước khi được hạ sinh để cảnh báo cho thị tộc rằng họ đang bị nguy hiểm rình rập và giúp họ vượt qua.

Gã chỉ huy toán vệ sĩ chờ sẵn chúng tôi ở chặng đi bộ tránh nước xiết tiếp theo. Cá Sấu 12, Mưa Chết 18 và Hun Xoc tách ra để gặp riêng hắn. Họ không cho tôi tham gia và thì thầm với nhau bằng ngôn ngữ đi săn mà tôi không hiểu. Nhưng khi chúng tôi quay xuống thuyền, Hun Xoc kể cho tôi nghe rằng toán vệ sĩ thông báo có một tốp khoảng hai mươi người đang bám theo chúng tôi, đi bằng thuyền và có lẽ có cả phu khuân vác đi theo bằng đường dọc bờ sông nữa. Họ không biết những kẻ này từ đâu tới, và qua vài lời nghe được, chỉ biết chúng nói thứ tiếng Ix dùng trong mua bán. Gã chỉ huy nói hắn nghĩ trang phục đội đầu của chúng cho thấy chúng là người của thị tộc Cá Trê ở Xalancab, gần Kaminaljuyu, một thị tộc trung lập, không đứng về phe Đại Bàng, cũng chẳng đứng về phía Mèo Rừng. Tuy nhiên toán vệ sĩ không nhận ra bất cứ ai quen mặt trong đám đó nên rất có thể đó chỉ là giả trang. Thị tộc Cá Trê chẳng được mấy ai biết đến nên là đối tượng dễ bị đóng giả.

Hun Xoc kể thêm rằng Cá Sấu 12 đã hỏi chúng có đi lại hay ra hiệu giống bọn săn khỉ hay không. “Bọn săn khỉ” ở đây nghĩa là “bọn săn người” hoặc “bọn ám sát”. Tên vệ sĩ trả lời rằng hắn không chắc, nhưng chắc chắn chúng muốn đi sau chúng tôi một đoạn. Cá Sấu 12 hỏi liệu chúng có biết chúng tôi đang đi đâu không, hay chỉ bám theo thôi, nhưng tên vệ sĩ cũng không biết.

– Nếu tôi phải đặt cược vụ này, tôi xin cá một ăn hai rằng chúng là bọn Búa Lớn, – Hun Xoc nói. Tôi nghĩ là tôi đã nói rồi, Búa Lớn tức là người nhà Mèo Rừng. Họ có biệt hiệu này bởi họ được quyền dùng một loại búa lớn đặc biệt trong chiến trận.

Hun Xoc nói rất có thể Chim Ruồi Có Nanh 9 đã phát hiện ra chúng tôi khi ông ta lảng vảng rình mò quanh trong lốt uay ban đêm của mình. Có lẽ ông ta đã ngờ rằng Chacal vẫn còn sống. Nếu nhà Mèo Rừng bắt được chúng tôi, điều đó sẽ chứng tỏ nhà Đại Bàng phạm tội lừa dối báng bổ, và Chim Ruồi Có Nanh 9 sẽ thâu tóm được toàn bộ những gì thuộc về thị tộc Đại Bàng như người, hàng hóa, quyền lợi đối với đất đai và nguồn nước mà không thị tộc nào dám phản đối.

Tôi không biết nói gì. Đừng có đổ lỗi cho tôi nếu các người không chắc – tôi nghĩ. Tôi suýt định hỏi liệu những kẻ đang bám theo chúng tôi có phải do chính Sọ Đá Quý 2 phái đi hay không, nhưng may sao kịp ngậm miệng đúng lúc. Nếu có thế thật thì Hun Xoc hoặc không biết, hoặc sẽ nói dối tôi.

Vả lại, cũng tốt nếu những gã này tưởng tôi thân cận với Sọ Đá Quý 2. Họ đang cho tôi tham gia một số việc, cho tôi ngồi cùng bàn với những anh chàng có máu mặt trong bữa trưa, nhưng tôi vẫn có cảm giác… hừ, thôi cứ nói toẹt ra rằng họ nhận được lệnh để mắt canh chừng tôi mọi lúc. Tôi chưa lần nào tỉnh giấc mà không thấy một gã đang ngồi nhìn tôi. Tôi chưa từng bước được một bước khỏi toán k’iik mà không có Tay 2 hoặc Cứt Ta Tu chạy vượt lên trước để kèm tôi. Và tôi cũng nhận thấy họ không bao giờ để tôi gần nước, thức ăn và dép xăng-đan dự trữ.

Thực ra, Sọ Đá Quý 2 lo đề phòng là đúng. Dĩ nhiên, tôi phải tin ông ta. Tôi tham gia vào vụ thỏa thuận này vì nó là thỏa thuận duy nhất. Có điều, sự thực là ông ta đã tra tấn tôi cứ khiến tôi mơ hồ ám ảnh. Và bất chấp việc tôi được ông ta nhận làm con nuôi một cách long trọng, bất chấp mối liên hệ giữa chúng tôi, bất chấp việc một kẻ xa lạ trên một vùng đất xa lạ như tôi muốn có một gia đình đến mức nào, tôi vẫn phải thành thật thú nhận rằng tôi không có bất cứ lý do gì để tin những việc ông ta làm cũng vì lợi ích của tôi. Mục đích của ông ta khác tôi. Ông ta chỉ cần cái công thức bí mật của món thuốc đặc biệt kia. Nếu ông ta có thể phá bỏ được thế độc quyền của những người Teotihuacán về món thuốc ấy, ông ta sẽ có thể tự tung tự tác. Nhưng, nói đến viễn cảnh của riêng tôi… nếu tôi nghĩ tôi có thể chạy khỏi những gã k’iik này, tìm đến một ngôi làng hẻo lánh, dùng vài mánh gì đó để lôi kéo người dân về phía mình, thành lập một đội quân chuyên đánh phục kích, tóm lấy vài người đếm mặt trời của một thành phố nhỏ nào đấy – hình như có ít nhất bốn mươi nhăm người đếm mặt trời chín sọ trên khắp vùng Mesoamerica, ngoài khoảng bảy mươi người gì đó ở Teotihuacán – lấy vài mẫu thuốc, chôn xuống đất cho nhóm Chocula (họ chẳng cần nhiều hơn một hoặc hai miligam mỗi loại để xét nghiệm) và thế là tôi… hừ, nghĩ đến đây mà muốn nản. Nhưng vấn đề là chuyện ấy hoàn toàn có thể, và Sọ Đá Quý 2 hẳn cũng lo tôi sẽ thử làm điều đó.

Vì vậy, tôi đoán rằng, nếu tôi bỏ chạy, hay thậm chí tỏ ra có ý định bỏ chạy thôi, tôi sẽ thấy mình bị trói gô lại như con ngỗng Giáng sinh chỉ trong vòng một giây.

Tuy nhiên, – tôi nghĩ, – có lẽ mình làm việc này là đúng. Đừng quên rằng công nương Koh chính là tác giả của ván chơi được ghi lại trong cuốn Thư tịch. Đúng không nào? Ngay cả khi bà ta không phải là người đếm mặt trời có tiếng tăm nhất ở đây – theo Sọ Đá Quý 2, người giỏi nhất là Gió Lốc 11 của thị tộc Ocelot ở Ix, hoặc Heo Vòi Luộc, người đang phụng sự Pacal vĩ đại ở Palenque – nhưng bà ta vẫn là người thích hợp nhất để chúng tôi lôi kéo về phe mình. Có lẽ bà ta thực sự đặc biệt, một trong những người đếm mặt trời vĩ đại mà theo tôi lời Sọ Đá Quý 2, cả một b’akt’un mới xuất hiện một người. Có lẽ, nếu tôi gặp được bà ta, mọi việc sau đó sẽ xuôi chèo mát mái. Có lẽ bà ta biết mọi chuyện và sẽ giúp chúng tôi giải quyết ổn thỏa. Có lẽ bà ta sẽ chỉ ngay ra được tên doomster. Tôi chỉ việc gửi cái tên đó về cho nhóm Chocula và thế kỷ 21 sẽ yên lành. Có khi bà ta còn mách nước cho tôi vài món chứng khoán nên mua nữa, và khi hoặc nếu trở về được, tôi sẽ giàu hơn cả hoàng tử Alwaleed Bin Talal Bin Abdulaziz (Một hoàng tử của hoàng tộc A-rập Xê-út).

Vì thế, cứ tiếp tục theo họ đi, Jed, ít nhất là lúc này. Đừng có nghĩ ngợi quá.

Tôi liền hỏi liệu có phải những kẻ đang bám theo chúng tôi đến từ Teotihuacán chăng. Hun Xoc trả lời rằng có thể ai đó ở đó đã thuê chúng, nhưng làm thế để làm gì. Và công nương Koh, hay theo cái cách gọi của Hun Xoc là Con Gái Thứ Hai Mươi Hai Của Nhện Dệt Cầu Vàng – nó gọi thế để tránh nhắc đến tên thật có thể khiến uay của bà ta bị đánh động – cũng sẽ không thuê chúng vì bà ta là một người đếm mặt trời chín sọ, bà ta có thể đã thấy chúng tôi đang đến qua một ván cờ.

Tôi đáp rằng phải. Nhưng trong bụng thì nghĩ khác. Dù bà ta có vĩ đại đến đâu chăng nữa thì cờ Hiến tế cũng không phải là một quả cầu pha lê…

Biển.

Đó là cái mùi cổ xưa của muối biển, hay đúng hơn, mùi của những sinh vât ưa mặn. Tôi quay sang nhìn những người xung quanh. Qua cách họ rảo bước, tôi có thể chắc chắn họ cũng ngửi thấy. Chúng tôi đang đi gần tới rìa của thế giới cạn. Ngày mai, chúng tôi sẽ lênh đênh trên mặt biển, trên tuyến đường dẫn đến Vương Quốc Của Những Lưỡi Dao và Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh.

42

Hai chiếc thuyền đi biển, đội phu chèo và những người đi tiền trạm của chúng tôi đã chờ sẵn tại địa điểm hẹn trước trên bờ biển, một bãi cát kín đáo nằm cách cửa sông ba dặm về hướng bắc. Chắc nó cũng chẳng lấy gì làm bí mật vì có phải đến ba trăm người lôi thôi lốc thốc đứng vây quanh trên một dải cát vàng mịn như bơ, lốm đốm những mỏm dung nham đen sì và xác một con cá mập chanh lềnh phềnh trong vũng nước nông. Chuyến hành trình của chúng tôi bị trì hoãn đôi chút khi các chủ thuyền nói sau vụ núi lửa phun trào, những người chèo thuyền của họ sợ bị nữ thần Cóc Đất luộc chín và ăn thịt nên chúng tôi sẽ phải bơi ở khoảng cách xa bờ hơn bình thường. Và vì thế, họ bắt chẹt chúng tôi số tiền cao hơn mức họ vừa đồng ý trước đó có vài giờ. Ngoài ra, chúng tôi còn phải thuê thêm một k’al maac có tiếng ở vùng này. Hắn từa tựa như người mà ở châu Phi họ gọi là inyanga, thầy lang nước; hắn sẽ giữ cho thuyền chúng tôi khỏi chìm bằng cách liên tục khấn vái, đổ dầu xuống nước khi biển động và những trò tương tự. Lúc đầu tôi nghĩ hắn chẳng qua chỉ là một loại bịp bợm, nhưng sau này, có lần tôi thấy hắn chơi một ván cờ Hiến tế kỳ quặc và hết sức giản lược để xem thời tiết biển. Mưa Chết 18 lo việc mặc cả và rốt cuộc chúng tôi cũng được lên thuyền. Toán vệ sĩ của chúng tôi ở lại trên bờ. Họ canh chừng xem chúng tôi còn bị bám đuôi hay không và sẽ đuổi theo sau. Chúng tôi cúng máu cho Người Đưa Nôi của hướng Tây Bắc rồi khởi hành.

Tôi nghĩ việc nhét hơn hai trăm người lên hai chiếc thuyền có vẻ không khả dĩ lắm, nhưng hai chiếc thuyền này không phải loại nhỏ. Tôi áng chừng mỗi chiếc dài khoảng chín mươi nhăm feet. Đây là loại thuyền được đẽo, hay đúng hơn, được đốt từ thân cây gỗ gụ, to phải bằng cây Luna (Một cây tùng già gần nghìn tuổi ở bang California), nữ hoàng của những cây tùng. Chiếc đi đầu có cái cổ dài vươn ra ở mũi thuyền với cái đầu bé tí khiến nó giống hệt một con khủng long cổ dài, còn chiếc thứ hai, có tôi ngồi trên đó, được gắn cái đầu như đầu tôm hùm với hai sợi râu. Thân thuyền màu đen khắc những ký tự màu trắng và da cam, được đánh bóng bằng mỡ lợn biển. Chúng còn có cả mái vòm nên nhìn không khác gì thuyền rồng của nữ hoàng Cleopatra, nhưng Cá Sấu 12 đã bắt phu chèo thuyền dỡ chúng xuống để chạy cho nhanh. Không hề có lá buồm nào. Hay mình dạy họ làm một cái nhỉ, – tôi nghĩ bụng. Thôi đừng. Đừng gây sự chú ý.

Sau khi qua khỏi vùng sóng mạnh gần bờ một cách an toàn, các k’iik có vẻ nhẹ nhõm. Cuối cùng họ cũng có thể tán gẫu một chút, lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi rời làng Cacao.

– Ac than a puch tun y an I pa oc’ in cabal payee tz’oc t pitzom?- giọng một ai đó hỏi. (Anh có nhớ cái lần chúng ta chơi ở đây và anh đánh lòi cả mắt một tên tiền đạo không?)

Phải mất một giây tôi mới nhận ra câu ấy là dành cho tôi.

– B’aax? – người đó hỏi tiếp. Nó đại để giống câu: “Này, Thằn Lằn Chân Lùn 10, tỉnh mộng đi nào”.

Đó là Tay 2, em trai Hun Xoc. Nó ngồi phía sau tôi, còn Hun Xoc ngồi đằng trước. Hai nhân vật quan trọng khác ngồi cùng trên chiếc thuyền này là Bướm Đêm 3 – người ghi nhớ – và Lưỡi Cưa 4, một trong năm người giả dạng tôi. Đầy tớ của ai ngồi bên trái người ấy. Tôi quay lưng lại.

– Ma’ax ca’an, – tôi đáp. (Đó không phải là tôi).

– Hắn ngã xuống và anh đánh quả bóng đập vào sau đầu hắn mà. Cái khăn giữ cho hắn khỏi vỡ đầu nhưng một bên mắt hắn bật ra. Tay 2 to béo và vuông chành chạnh với khuôn mặt hăm hở, nó kéo mí mắt phải lên và cố làm cho con ngươi lồi ra hết mức. – Hắn vẫn nhìn được bằng con mắt bên kia nên cố thử nhét con mắt bị lòi vào hốc mắt nhưng không được, thế là, chẳng biết làm gì nữa, hắn biết mình sắp ngỏm và không muốn chúng ta lấy được nó, hắn liền ăn nó.

– Tôi không nhớ chuyện đó, – tôi đáp.

– Mày nên ăn một bát bột sắn thật to đấy. – Hun Xoc bảo Tay 2. Đó là một câu thành ngữ, ý nói: “thôi ngay”. Chacal đang trải qua quá trình giống như “cắt đứt” với cuộc sống, và việc hỏi han về những chuyện xảy ra với anh ta trước khi cái xác được chuyển sang cho tôi rất dễ dẫn đến việc vi phạm điều cấm kỵ: đó là cái tên cũ của tôi không được phép nhắc đến nữa. Nhưng Tay 2 không để tâm đến những chuyện như vậy.

Tôi nghe thấy Lưỡi Cưa 4 cố nén một tiếng rúc rích.

– Chuyện xảy ra như thế thật à? – tôi hỏi.

– Không hẳn thế đâu, – Hun Xoc nói.

– Chính xác là như thế đấy, – Tay 2 cãi. – Anh còn nhớ Vảy Ghẻ 22 không? – nó hỏi tôi.

Tôi lắc đầu.

– Hắn là một trong những tên làm vườn của Bóng 3, – Hun Xoc chen ngang, – mặt hắn đầy mụn cơm và rất khó coi. Hắn luôn đi tắm hơi một mình. Nhưng có một lần, Rắn Chuông 22 bất chợt bước vào và nhìn thấy đầu chim hắn bị cắt cụt. Và hắn không chịu kể cho chúng ta chuyện ấy xảy ra như thế nào.

– Anh có nhớ chúng ta đã phát hiện ra chuyện đó như thế nào không? Với Tóc Cứt ấy? – Tay 2 hỏi.

– Cậu hỏi tôi à? – tôi hỏi lại.

Nó gật đầu.

Tôi lắc đầu. Tôi quan sát Tay 2 qua tấm mặt nạ. Nó tin câu chuyện đó đến mức nào nhỉ? – tôi nghĩ ngợi, – chuyện tôi quên mình là ai ấy mà. Rõ là nó không nghĩ tôi đã thành một người hoàn toàn khác, tuy nó vẫn hơi e dè. Và tất cả những người ngồi trên con thuyền này, tất cả những người tham gia chuyến hành trình này nữa, họ tin câu chuyện đó đến mức nào? Liệu họ có tin tất cả những gì Sọ Đá Quý 2 nói, hay chỉ chấp nhận thế thôi? Họ có phải lũ đần đâu. Nhưng mặt khác, ở đây người ta cũng không có nhiều ý niệm về sự nghi ngờ tôn giáo. Có lẽ mỗi người trong số họ suy nghĩ một khác. Người thì tin, người thì nghĩ các vị thủ lĩnh của mình đang phóng đại mọi chuyện.

Và đương nhiên, ngay cả khi họ có tin đi chăng nữa, họ cũng vẫn tức giận tôi vì đã làm hỏng việc của Chacal. Hẳn là Sọ Đá Quý 2 có giải thích với họ chuyện này, ông ta nói tôi đến cũng là để cứu Chacal nữa… song thể nào cũng còn chút oán giận. Và có lẽ cả sợ sệt nữa. Họ không chắc tôi có phải là người hay không.

Thôi, đừng có hoang tưởng nữa. Mọi chuyện có phải chỉ xoay quanh mày đâu.

Tay 2 nói tiếp:

– Ờ, trên đường thi đấu ở đây về, chúng ta đã nghĩ lại ở cái làng mọi này. Có một k’aak – tức là một con bé mọi – nó muốn ngủ với tất cả chúng ta, tất cả những người chơi bóng hông. Nó có mớ tóc dài với những vệt màu nâu. Lúc nào nó cũng luẩn quẩn xung quanh và họ gọi nó là Tóc Cứt. Anh nhớ không?

– Không, – tôi đáp. Thực ra tôi cũng thấy gợi gợi lên chút gì đó trong đầu, nhưng phải cần thêm gợi ý thì mới nhớ ra được.

– Thế anh cũng không nhớ lúc anh đang ngủ thì Bướm Đen 1 xát c’an aak’ot vào chim anh à?

Tôi lại ra hiệu “không”.

– Thế chuyện gì xảy ra? – Lưỡi Cưa 4 hỏi.

– À, Cha… À… anh này tỉnh dậy, – Tay 2 nói, – anh ta nhảy dựng lên, nắm cái ấy, nhảy tưng tưng và gào lên: “Nó căng quá! CĂNG QUÁ!!!” – Chắc c’an aak’ot là một loại ma tuý nào đấy gây ảo giác kích thích dương vật – Anh ta chạy cuồng lên quanh sân và nhìn thấy Tóc Cứt. Anh ta kêu lên: “a ha!”, tóm lấy con bé và “ấy” vào lỗ đít nó. Thế là, một lúc sau, anh ta thấy thoải mái, ngồi lau sạch cái của quý của mình, nhưng lại đến lượt Tóc Cứt nhảy tưng tưng lên. Nó gào: “Ui, ui, ui, ui, ui, ui!”.

Chắc các bạn cũng hình dung ra Tay 2 vừa bắt chước các giọng kêu, vừa đùng đùng diễn lại động tác đó làm chuyển cả con thuyền.

– Thế là nó ngồi xổm xuống và ị. Cứt tuôn ra và tất cả chúng tớ đứng nhìn. Lát sau, con bé ỉa ra cả ruột. Và cứ thế lòng ruột tuôn ra từ đít nó, cuộn thành một đống dưới đất, một con chó chạy đến, đớp lấy một đầu và chạy đi, làm chỗ lòng bị lôi tuồn tuột tiếp ra. Nó bắt đầu ăn, lòng ruột cứ thế bị lôi ra, Tóc Cứt mặt nhăn nhúm lại như thế này này, và một đoạn lòng có một cục lồi lên. Thế là anh này – ý nó nói tôi – giật chỗ lòng ra khỏi miệng con chó, đẩy cái cục kia ra đằng đầu ruột đã bị nhai nát. Nó rơi xuống đất. Một thứ khẳng khiu, nhăm nhúm và đầy mụn cơm. Đó là cái đầu chim của Vảy Ghẻ 22! Thế là anh này hét lên: “Cái chim này có ở đâu thì tao cũng nhận ra! Nó là của Vảy Ghẻ 22! Thằng nào đi tìm nó về đây đi! Chúng ta tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!”.

Mấy thằng đầy tớ phải cắn chặt môi để nén tiếng rúc rích. Bướm Đêm 3 và Lưỡi Cưa 4 thì cười rũ ra. May mà những người chèo thuyền không hiểu thứ tiếng riêng của nhà chúng tôi.

– Tôi không biết chuyện này đấy, – tôi nói. Và tôi cũng lăn ra cười. Có lẽ nó cố tình làm thế. Các bạn mà được ở đó thì…

– Đủ rồi, – Hun Xoc nói, – thôi đi. Bọn Búa Lớn có thể ngửi thấy mùi chúng mày đang căng cứng lên đấy.

Không biết tôi đã nhắc tới chuyện này chưa, nhưng chúng tôi không được phép sa đà vào bất cứ thể loại nào liên quan đến tình dục trong chuyến đi này. Một chuyến đi dài cũng được coi giống như một chuyến đi săn thiêng liêng. Anh thậm chí không nên “dựng lều” nếu có thể nén được, bởi, như Hun Xoc nói, nó sẽ khiến kẻ thù ngửi thấy mùi chúng tôi, giống như đánh động con mồi trong chuyến đi săn. Nhưng dĩ nhiên, đám k’iik này phần lớn vẫn còn là trẻ con, và dĩ nhiên, là giống đực.

– Chúng ta phải là sac kanob, – Hun Xoc nói tiếp. Sac kanob nghĩa là rắn mũi thương. Câu đó ý nói rằng hơn tất cả các loài rắn khác, rắn mũi thương nhanh, khó phát hiện, và đặc biệt là lặng lẽ.

Tay 2 bèn ngồi yên.

– Hơn nữa, – Hun Xoc nói, – mày thêm thắt cũng quá đấy. Có một đoạn ngắn tí bị lòi ra thôi.

Nó ngả người ra và nhét một nhúm thuốc lá nhai vào miệng. Trời đã sập tối. Không còn chút ánh le lói nào. Sau khi đi qua một đống lửa hội mừng ở Comalcalco, chúng tôi rẽ về hướng tây bắc – hướng của thần chết – lái thuyền chạy vuông góc với hai ngôi sao của Teotihuacán, ngôi Kền Kền Cái và Vết Thương Của Kền Kền Cái; đó chính là ngôi sao mà ngày nay chúng ta gọi là Thuban và vệ tinh màu đỏ của nó: Alpha Draconis. Vào năm 3113 trước công nguyên, năm bắt đầu của hệ thống lịch Long Court, Thuban chính là ngôi sao nằm ở vị trí sao bắc đẩu. Tôi chưa từng nhìn thấy màu đỏ của nó rõ đến thế, kể cả qua kính viễn vọng. Hun Xoc nói chúng tôi đang tiến đến gần hai ngôi sao đó, gần đến mức có thể nghe thấy tiếng chúng kêu xèo xèo khi chạm vào mặt nước. Tôi có thể nghe thấy âm thanh mà thằng bé ám chỉ. Tiếng động đó nghe như tiếng xèo xèo của đầu mẩu thuốc lá rơi xuống vũng nước mưa, nhưng dĩ nhiên đó chỉ là tiếng sóng biển. Đám vi khuẩn phát sáng lập lòe theo mỗi nhịp mái chèo nhúng xuống nước, hệt như tia sáng bắn ra theo nhịp đập đá lửa. Trước lúc bình minh, thời khắc thích hợp nhất để tập trung, tôi ngả người qua mạn thuyền – cố tránh nhìn vào cái bóng của khuôn mặt mới vì nó luôn làm tôi hoảng hồn – và thử điểm danh các loài lưỡng tính. Có tôm bạc hà, những con nhuyễn thể bơi thành từng dải dài đỏ quạch, những con sứa khổng lồ và một loài có hình phiến lá oải hương nhìn như sứa răng lược nhưng tôi không nhận ra là loài nào. Có lần, tôi nhìn thấy một con mà tôi biết chắc chắn chưa từng được mô tả, nhưng khi tôi thò tay xuống định tóm lấy nó thì trong nước đầy nọc sứa làm tay tôi ngứa ran, thế là hụt.

Toán vệ sĩ bắt kịp chúng tôi vào buổi trưa. Họ đi trên một chiếc thuyền thân hẹp giống thuyền đua với mười người chèo và mười người nghỉ chờ tiếp sức. Hun Xoc và các k’iik khác đã đặt tay lên cây lao, nhưng chiếc thuyền được quấn những tràng hoa giấy mang màu sắc của thị tộc Đại Bàng, và khi đó đến gần thì họ nhận ra. Thuyền chúng tôi đi sát vào bờ và đậu vào chỗ khuất gió của một bãi cát nổi.

Gã chỉ huy leo lên thuyền của tôi và đi ra phía cuối thuyền. Người ngồi lái rời khỏi vị trí, hắn cùng những người khác đi ra mũi thuyền để năm chúng tôi, lần này có cả tôi, bàn chuyện.

Có một toán đông đang bám theo chúng tôi, gã vệ sĩ nói, ít nhất là mười hoặc mười lăm người, chính là những kẻ đã theo chúng tôi trên sông.

Chúng tôi không cưỡng được cái quay đầu nhìn về hướng đông. Trên mặt nước có vô số thuyền bè, nhưng hắn nói chúng còn cách quá xa nên chưa thể nhìn thấy.

Cá Sấu 12 ra lệnh cho lính trinh sát lên bờ, thuê hai chiếc thuyền nhỏ hơn và theo dõi những kẻ đang theo dõi chúng tôi. Trong lúc đó, chúng tôi sẽ vượt thật xa chúng. Nếu chúng biết chúng tôi đang đi đâu, chúng sẽ không rời khỏi mặt nước, bằng không, chúng sẽ đỗ lại ở tất cả các cảng để kiểm tra xem chúng tôi có đi qua đấy không.

– Và đừng quay về đoàn khi chưa phát hiện chắc chắn chúng là ai – ông ta dặn.

Kết cục là, thay vì lên bờ hôm nay, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, ra xa ngoài khơi, đi chếch về hướng bắc thay vì tây bắc và thưởng cho những người chèo thuyền món đầu tiên để họ tăng tốc. Đêm nay, chúng tôi sẽ đổi hướng một lần nữa về phía tây để cắt cái đuôi lẵng nhẵng đằng sau. Đội lính gác quan sát chân trời phía sau chúng tôi, dùng những tấm da cuộn lại như ống nhòm, nhưng sương mù mỗi lúc một dày, hay đúng hơn là mờ mịt nên họ không phát hiện được điều gì khả nghi.

Sáng ra, mặt nước gợn vết mỡ loang óng ả từ xác cá voi và lều phều những con cá chép trương phềnh. Chúng tôi không nhìn thấy, cũng không cảm thấy bụi rơi xuống người, nhưng ai nấy đều xám đen đi, và nếu có người quết một miếng giẻ ướt lên mặt chúng tôi thì nó sẽ đen sì đi lập tức. Xác cá chết thu hút những con mòng biển từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Tôi không nói quá đâu. Chắc chắn thế đấy. Có những con chỉ nhỏ bằng con quạ, nhưng cũng có những con to phải bằng loài khủng long có cánh. Khi chúng tôi đi qua cái xác trắng bị rỉa nham nhở của một con cá heo – tôi đoán thế – thì vô số mòng biển cất cánh bay lên, nhiều đến mức những người chèo thuyền tưởng chúng được ấp nở ra từ trong xác con cá. Ruồi nhặng nữa, đông đặc, đến gió biển cũng chẳng đủ để xua bớt đi, thế nhưng Cứt Ta Tu rất chịu khó, nó liên tục dùng túm phất trần tết bằng tóc phủi người cho tôi, vài giờ mới đổi tay một lần cho đỡ mỏi. Khổ thân thằng bé.

Đêm thứ chín kể từ khi rời Ix, biển bắt đầu trở gió. Họ dùng những tấm ván dài nối hai chiếc thuyền lại với nhau để tạo thành một kiểu thuyền đôi. Chúng tôi buộc phải bơi xa bờ hơn nữa để đề phòng gió mạnh có thể đẩy chúng tôi về phía vách đá. Bão rồi, – tôi nghĩ, – chúng ta thành mồi cá mú mất. Thôi rồi lũ chim biển. Chúng tôi sẽ đâm phải chúng trước tiên. Nhưng cái cơn phải gió ấy cũng qua đi và áng chừng khoảng ba giờ sáng, mặt trăng to lớn, đỏ quạnh hiện ra từ sau những đám mây, nhìn hệt như nửa viên thuốc Valium 5 miligam, rơi tõm xuống mặt nước. Hôm sau, chúng tôi cập cảng một thành phố tiền đồn của người Teotihuacán có tên là Nơi Chúng Bị Mù Mắt, nằm bên bờ bắc của một hồ nước sau này được gọi là Laguna de Alvarado. Nó thực ra chỉ gồm những con đường đắp bằng bùn dẫn xuống một cửa sông nước nông, đậu chật kín nào thuyền, nào xà lan với những đội chèo thuyền nói năm mươi thứ tiếng khác nhau. Có cả một khu trại lớn nơi những người thợ ướp muối ướp thịt chuột đầm lầy và cá phèn, dù đã có gió xua bớt nhưng ở đây vẫn ám mùi thối của cá ươn và không khí nói chung có mùi khó chịu.

Trong khi các ông lớn mặc cả, Tay 2 và Cứt Ta Tu đặt tôi ngồi vào một thứ dạng như cái lều di động đan bằng cành liễu, tựa như cái xe tắm (Một loại xe dành cho người đi tắm biển, thịnh hành vào thế kỷ 19. Chiếc xe chở người tắm ra đến mép nước và người tắm từ trên xe lội thẳng xuống nước để tránh phải đi một quãng đường dài trước mắt thiên hạ trong bộ đồ tắm). Tôi lấy ra một tập giấy gấp mới với cái bìa còn trắng tinh. Tôi định dùng một mẩu than chì nhưng Bướm Đêm 3 đã kiếm được cho tôi vài mảnh quặng sắt đỏ có thể vạch nét khá rõ trên nền đá phấn, không kém gì trâm bạc. Thế là sẵn sàng.

Tôi viết thêm một bức thư gửi về nhà dưới dạng mã hoá như sau:

(đã giải mã)

TỪ KHÓA MỚI: AWHNNBAGHSDDLPFSETQHYTAHBDSZ

Jed DeLanda

Viết tại: Tacoanacal Pana’ Tonat (Alvarado)

Gửi: Nhóm Chocula

Tại: Phế tích Ix, Alta Verapaz, Guatemala.

Khoảng 11 giờ sáng, thứ Tư, ngày 31 tháng 3 năm 664 Công nguyên.

Marena, Taro, Jed và mọi người thân mến,

Chắc mọi người cũng nhận thấy, trong bức thư đầu tiên, tôi đã định thử mô tả một số nét đặc trưng của địa phương nhưng lại thôi. Trong phần này, tôi sẽ chỉ tập trung vào vấn đề chính. Như tôi đã nói, nhiệm vụ đầu tiên của tôi khi đến Teotohuacán là tìm cách diện kiến người phụ nữ được nhắc đến trong cuốn Thư tịch Nurnberg, Ahau-na Kor. Sau đây là những gì tôi tìm hiểu được về bà ta, cho đến lúc này:

Bà ta sinh, hay chính xác hơn, được đặt tên vào ngày Đỉnh núi 1, Ngỗng trắng 1. 9.10.13.13.13, tại một thành phố nhỏ ở B’aakal tên là Mía ủng, thuộc quần thể bao quanh Lakama, Palenque. Bà ta là người thuộc gia tộc cai trị thành phố đó, những người được coi là hậu duệ của loài chim chứ không phải loài mèo, và là con cháu của bà ngoại Sọ Đá Quý 2. Từ khi lên năm tuổi, bà ta đã bộc lộ năng khiếu và một người đếm mặt trời ở Hội Rắn Chuông Lakamha đã dạy bà ta chơi cờ Hiến tế. Bà ta chơi xuất sắc một cách khác thường, và sáu năm sau, Hội Rắn Chuông đã gửi bà ta đến Teotihuacán để học tiếp với Nhện Dệt Cầu Vàng, một dạng giống như nhà tu kín dành cho nữ giới phụng sự trong dòng tu thờ Rắn Chuông ở đó.

Tôi nghĩ tôi nên nhắc tới điểm này, ngay cả khi nó làm câu chuyện trở nên rối rắm: Nhện Dệt Cầu Vàng – nó được lấy theo tên loài nhện dệt cầu vàng có tên khoa học là nephila clavipes – là một bộ phận thuộc cái gọi là Kền Kền, hay Trắng, hay Thời Bình, chính là một nửa Giáo hội của Teotihuacán.

Mục đích của việc này có lẽ là để củng cố mối quan hệ giữa Lakamha và Teotihuacán. Mặc dù Kor phải chính thức tuyên bố từ bỏ quan hệ với gia đình để gia nhập dòng tu thờ phụng Rắn Chuông, nhưng mối liên hệ đó vẫn có lợi ích chính trị đối với gia đình bà ta, nhất là nếu như sau này bà ta quay về. Sọ Đá Quý 2 có nói rằng khi công nương Kor rời nhà, thủ lĩnh của tất cả các thị tộc họ chim trong vùng đã gửi quà biếu. Sọ Đá Quý 2 tặng bà ta một người làm trò uốn dẻo rất giỏi tên là Nhím 0, và hình như đến giờ hắn vẫn là tên hề được bà ta sủng ái nhất. Ở Teotihuacán, bà ta là một trong số rất ít phụ nữ trở thành người đếm mặt trời chín sọ, một trong những người biết cách sử dụng, và có thể biết cách pha chế các loại ma tuý của trò chơi. Người ta đồn rằng bà ta có thể nói chuyện với ruồi và sau mỗi mùa hòa bình lại thay da một lần. Giống như một vài thành viên Maya khác trong dòng tu, Kor hoặc đã quyết định không trở về vùng đất của người Maya, hoặc đã bị ngăn trở bởi những khúc mắc căng thẳng giữa đạo thờ Rắn Chuôngvà các thị tộc cai trị. Người ta còn đồn đại nhiều chuyện khác nữa, nào là áo quần bà ta mặc được dệt bởi những con nhện, nào là bà ta nhớ được cả lúc nằm trong bụng mẹ, nào là bà ta có thể tự lột bỏ da. Hội Rắn Chuông Sao của Teotihuacán được sáng lập bởi một ahau lai dòng máu Maya tên là Xc’ux Tsuc 11(nghĩa là Rắn San Hô 11), người đã đưa gia tộc của mình đến định cư tại thành phố này vào ngày mùng 9 tháng 8 năm 106 Công nguyên. Nó lớn mạnh một cách vững chắc qua nhiều thế kỷ. Trong khi đó, hội đồng của thành phố vẫn bị chi phối bởi hai thị tộc Kền Kền và Bướm Đuôi Nhạn. Nhưng từ tám năm trước, hai thị tộc lớn này và các dòng tộc chi nhánh của họ lên tiếng đòi lại vị trí thống trị tôn giáo cho các vị thần bảo trợ của họ là Bão Lốc, hay còn gọi là Ông Già Nhăn Nheo, và Koatalatcacalanako, nữ thần nước có nanh mà họ gọi là Phù Thủy Ngọc Bích. Hội Rắn Chuông bị hạ bệ và bị buộc phải xây một bức tường chắn tầm nhìn của Kim Tự Tháp Rắn Chuông xuống quảng trường chợ thiêng liêng của Teotihuacán, nơi trước đó do họ cai quản. Do vậy, Nhện Dệt Cầu Vàng có thể đang bị chèn ép và có lẽ họ sẽ sẵn sàng thỏa hiệp với tôi để thoát khỏi tình thế đó. Chúng ta sẽ chờ xem.

Tôi vẫn chưa có kế hoạch nào khả dĩ hơn. Phải thú nhận rằng tôi đã tính đến chuyện chuồn đi và dựng lên một nhân vật tựa như Jim – Chúa tể rừng xanh. Biết đâu tôi có thể chiếm được cho mình một cái làng hẻo lánh chết toi nào đó, huấn luyện họ bắn cung rồi dẫn quân về Ix và lật đổ cái thành phố ấy. Nhưng để làm được việc ấy, phải cần đến rất nhiều thời gian mà tôi không có.

Tôi cũng tự hỏi liệu còn cách nào khác để giải quyết chuyện này. Chẳng lẽ không có người đếm mặt trời chín sọ nào ở gần Ix hơn để chúng tôi có thể bắt giữ và ép khai ra cái bí mật kia?

Nhưng khi tôi đề xuất việc này với Sọ Đá Quý 2, ông ta đưa ra ba lý do phản đối rất hợp lý.Thứ nhất, những người đếm mặt trời của thị tộc mèo kia thà chết chứ không bao giờ để bị bắt. Cái chết đối với họ chẳng là gì sất, anh chỉ cần nhìn họ với ánh mắt hơi là lạ thôi là họ sẽ tự vẫn ngay. Và ngay cả khi anh bắt được một người và giữ hắn không tự tử được đi chăng nữa thì cũng chẳng có cách nào khiến hắn nói thật cho anh bất cứ điều gì. Người ta luôn cho rằng chẳng ai có thể chịu đựng được mãi dưới những ngón tra tấn lành nghề, nhưng điều đó không đúng, chí ít là ở đây. Theo lời Sọ Đá Quý 2, anh có thể khiến một người kêu gào suốt hai mươi tư giờ một ngày, bảy ngày một tuần trong hai mươi năm liền nhưng cũng đừng hòng hắn cho anh biết bây giờ là mấy giờ. Thứ hai, những người đếm mặt trời ở vùng này chỉ có một lượng nhỏ thuốc đã pha chế sẵn. Còn thứ mà Sọ Đá Quý 2 muốn là công thức chế biến trọn vẹn, cây cỏ hoặc bất cứ thứ gì nằm trong thành phần thuốc nếu tôi có thể mang chúng về nguyên vẹn.

Nhân tiện, Sọ Đá Quý 2 cũng nói luôn vì sao chúng tôi không thể đánh cắp thuốc của nhà Mèo Rừng. Như chúng ta đã thấy qua ra-đa, có cả một mạng lưới hang động ăn sâu vào dãy núi phía sau kim tự tháp của nhà Mèo Rừng. Vào lúc này, hình như họ đang đào hầm mộ cho Chim Ruồi Có Nanh 9 trong một trong những cái hang đó. Người ta đồn dưới ấy có cả một làng thầy tế chẳng bao giờ ló mặt ra ngoài, chỉ ở đó để giữ chặt số thuốc. Thậm chí nếu chúng tôi có tìm ra số thuốc nằm ở đâu, họ cũng sẽ nuốt chửng hết và tự tử trước khi chúng tôi lấy được. Cũng phải công nhận rằng việc hối lộ thường không có tác dụng đối với những người thuộc giới quý tộc. Không tài nào mua chuộc được họ.

Bốn mươi năm trước, nhà Mèo Rừng đã ám sát toàn bộ những người đếm mặt trời giỏi nhất của các thị tộc khác. Sọ Đá Quý 2 mới chỉ đạt bốn sọ, vậy mà ông ta đã là người đếm mặt trời cấp cao kiêm ahau của nhà Đại Bàng. Người đếm mặt trời tám sọ của ông ta đã chết nhiều năm trước, và hiện nay, người duy nhất đạt trên đẳng cấp bốn sọ còn lại ở Ix là Gió Lốc 11 của nhà Mèo Rừng. Nói đến đây, như mọi người đều biết, tất cả những người đếm mặt trời chín sọ ở ngoài Teotihuacán điều phục vụ cho các thị tộc báo đốm.

Giữa những người đếm mặt trời nam và nữ cũng có một vài mâu thuẫn. Chuyện kể rằng, vào thời xa xưa, hầu hết người đếm mặt trời là nữ giới và những người đếm mặt trời nam giới phải tự thiến mình để chơi tốt hơn. Có người nói người đếm mặt trời nữ giới dự đoán chính xác hơn nhưng họ đã bị phe nam giới hất cẳng. Hình như hội của Koh đã phải biến mình thành nam giới để tránh rắc rối. Nghe đâu Koh vànhững người đếm mặt trời nữ giới khác của Hội Rắn Chuông có cả vợ, những người vợ, hay nàng hầu gì đó. Nhưng đó cũng có thể chỉ là những lời đồn tục tĩu.

undefined

Sọ Đá Quý 2 nói nếu tôi đem về được những thứ như dự tính, ông ta sẽ biếu một lượng lớn thuốc cho thủ lĩnh của các thị tộc không thuộc dòng dõi Mèo Rừng ở Ix và tuyên bố rằng việc ông ta chế ra được thứ thuốc này chứng tỏ ông ta, chứ không phải Chim Ruồi Có Nanh 9, mới là người được Mèo Rừng 1, người sáng lập ra thành Ix theo truyền thuyết, lựa chọn để cai trị thành phố. Việc này sẽ khiến nhà Mèo Rừng mất uy thế, đủ để Sọ Đá Quý 2 nhận được sự ủng hộ của các dòng họ quý tộc khác ở Ix. Khi họ đã hoàn toàn đứng về phe ông ta, ông ta sẽ tìm một cái cớ nào đó để hủy trận đấu bóng hông. Lý tưởng hơn, các thị tộc lớn sẽ phế truất nhà Mèo Rừng và tôn Sọ Đá Quý 2 làm ahau. Sau đó, nếu sống được đủ lâu, ông ta sẽ rời Ix, lập nên một thành phố riêng ở đâu đó về phía đông. Bởi theo các chứng cứ khảo cổ, dòng tộc của Sọ Đá Quý 2 có thể duy trì quyền lực tại một thành phố khác thêm ít nhất hai trăm năm nữa.

Sọ Đá Quý 2 hứa với tôi rằng nếu tôi đưa được Koh hay một người đếm mặt trời chín sọ nào đó về, cùng với phương thức pha chế các món thuốc, ông ta sẽ đảm bảo sao cho tôi được táng cùng với toàn bộ số thuốc và thông tin ghi chép được trong một hầm mộ không bị ai để ý, với những viên đá nam châm sắp xếp theo đúng cách. Dĩ nhiên, tôi cũng nhận thức được rằng những điều này đa phần chỉ là dự tính. Ông ta liệu có thực lòng với chúng ta không? Hừ, đương nhiên tôi sẽ ngầm để ý theo dõi ông ta. Nhưng tôi nghĩ, bất chấp mọi chuyện đã xảy ra, sau những cuộc luận bàn bí mật giữa hai chúng tôi, tôi và Sọ Đá Quý đã trở nên khá thân thiết. Chúng tôi hiểu nhau. Và theo như tôi thấy, đến giờ, ông ta chưa hề nói dối tôi.

Tôi gửi kèm theo sau đây năm mươi sáu trang giấy ghi chép những điều tôi mới tìm hiểu thêm về cờ Hiến tế. Các vị sẽ thấy trong một thời gian ngắn trước khi tôi rời Ix, Sọ Đá Quý 2 đã dạy tôi vô khối những chiến thuật và quy tắc chơi mới (đối với chúng ta thôi). Ông ta cũng huấn luyện tôi các nghi thức mà, theo lời ông ta, sẽ khiến tôi đủ tư cách đấu với bất cứ người đếm mặt trời Maya nào.

Chắc các vị cũng thắc mắc liệu Sọ Đá Quý 2 có dạy hết cho tôi những gì ông ta biết về trò chơi không. Chính tôi cũng băn khoăn điều này. Bởi một lẽ, tôi hiểu về trò chơi đủ để khẳng định rằng ngay cả khi học đến mười năm với Sọ Đá Quý 2, may mắn tôi cũng chỉ chơi được với sáu viên đá. Và như thế hiển nhiên còn xa mới so được với chín viên. Tôi có bỏ ra hàng năm luyện tập cũng không thể nhìn xa được quá một k’atun, chứ đừng nói gì đến tám mươi. Vì thế, hoặc tôi phải tìm được một ông thầy chín sọ, hoặc LEON phải được cải tiến thật nhanh, hoặc món thuốc phải vô cùng hiệu nghiệm, nếu không chúng ta sẽ xôi hỏng bỏng không. Còn về chuyện Sọ Đá Quý 2 có giấu nghề với tôi hay không, hoặc ông ta có sai người đếm mặt trời của mình làm xáo trộn ván chơi một cách cố ý hay không thì …hừ, tôi không dám nói chắc. Tôi không nghĩ ông ta làm thế. Nhưng các vị cũng biết đấy, tôi có bao giờ giỏi xét đoán người khác đâu.

Sọ Đá Quý 2 đã hứa nếu tôi không thể đích thân đưa những mẫu ghi chép này về, ông ta sẽ chôn nó trong hầm mộ cùng mọi thứ liên quan đến trò chơi mà ông ta có thể kiếm được và đặt những viên đá nam châm theo đúng cách chúng ta đã bàn, sát vị trí định trước hết mức có thể. Mặc dù tôi không quá lạc quan về số phận của Sọ Đá Quý 2 sau trận bóng hông… nhưng tôi vẫn có dự cảm tốt lành về việc sẽ đến Teotihuacán kịp lúc và bắt đầu một giai đoạn thành công hơn trong chuyến hành trình lần này.

Một lần nữa, xin cảm ơn sự tin tưởng của các vị.

Xin chúc mọi điều tốt lành,

JDL,

Xin xem tài liệu đính kèm.

43

Người ta gọi thác nước Nacouintan là “Xcaracanat” – “Nơi Khai Thiên Lập Địa” – bởi nữ thần Cóc Đất đã bị xẻ xác ở đây sau khi sáng tạo ra thế giới, mắt thần hoá thành các hồ nước, sông suối, hang động, và đại dương trở thành vũng máu nơi thần hấp hối. Mưa Chết 18 nói thần có miệng ở cả khoeo chân, khoeo tay, cổ tay và vô số các khớp khác, và những cơn núi lửa phun trào chính là tiếng kêu đòi máu và thịt để có thể tiếp tục sống với những vết thương. Lão trao cho các thầy tế ở đó một tên phu nô lệ mà chúng tôi không hài lòng. Các k’iik ngồi chờ dưới một mái che dành cho khách qua đường và mặc cả mua bán với bọn hàng rong. Hun Xoc từ ngoài đường quay về, ngồi xệp xuống cạnh tôi.

– Chúng ta vừa phải nhận thêm mười tám con rùa đất hai chân – nó bảo tôi. Nghĩa là chúng tôi vừa phải mua thêm nô lệ và chúng có vẻ không thạo khuân vác cho lắm.

Tôi ra hiệu “ừ”.

– Không phải là tiếc tiền, – thằng bé nói tiếp, – nhưng có quá ít phu khuân vác chuyên nghiệp. Thà rằng cứ dùng một toán nô lệ chưa biết gì, khi nào chúng kiệt sức thì bán đi hoặc cứ vứt lại bên lề đường rồi thuê người thay thế trên đường còn hơn.

Tôi ra hiệu “chí phải”, tức là ra hiệu “ừ” hai lần để nhấn mạnh. Từ đây đến Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh vẫn còn tới hai trăm bốn mươi dặm nữa, gần như thẳng hướng táy. Nếu đi liền hai mươi tiếng một ngày, chúng tôi có thể đến nơi vừa hay trước lúc đóng cổng giới nghiêm. Nhưng đường xá cứ mỗi lúc một đông.

Hun Xoc nhìn tôi. Tôi cũng nhìn lại.

– Tôi đang nói chuyện với Chacal hay Thần Lằn Chân Lùn 10 thế? – Nó hỏi. Một câu hỏi vu vơ, nhưng nó biết cách tóm được anh lúc không đề phòng.

– Chacal đi rồi, – tôi đáp, – tên thật của tôi là Jed DeLanda.

– Jed DeLanda? – Nó lặp lại.

– Đúng thế, – tôi đáp. Thằng bé phát âm từ đó rất chuẩn xác. Nó vốn là thợ săn và thường xuyên luyện tập cách bắt chước tiếng kêu của động vật.

– Vậy thì Jed, bên cạnh tôi, anh từ đâu đến?

– Tôi đến từ một nơi gần Ix, – tôi đáp.

– Anh đến từ thời gian nào?

– Từ b’ak’tun thứ mười ba.

– Tôi chắc Sọ Đá Quý 2, ở trên chúng ta, không nghĩ chúng tôi cũng biết điều đó.

– Phải.

– Ờ… – nó nhìn nhanh vào mắt tôi rồi lại quay nhìn phía trước, – ở đó như thế nào?

– À, chúng tôi biết rất nhiều thứ, – tôi đáp, – và người ta xây dựng rất nhiều thứ, các thành phố lớn hơn cả Teotihuacăn… Ở b’ak’tun thứ mười ba, chúng tôi không đi bộ như ở đây, chúng tôi lướt đi trên những cái xe cáng lớn đặt trên bánh lăn, chỉ có điều, những cái bánh lăn chạy theo cùng xe nên không phải chuyển sang bánh lăn khác. Và chúng tôi đi nhanh hơn thế này rất nhiều.

– Ờ. Thế anh đã tới thành phố Lưỡi Dao rồi à?

– Rồi, nhưng ở b’ak’tun thứ mười ba, nó chỉ là những khối đá rỗng thôi.

– Thế anh, ngồi gần tôi, biết xa hơn về phía tây bắc của Teotihuacán có gì à?

– Phải.

– Ở đó có gì?

Tôi trả lời rằng ở đó còn rất nhiều đất đai nữa, rồi đến biển, rồi lại thêm đất đai ở nửa kia của trái đất hình tròn như quả bóng. Tôi nói rằng chúng ta không văng khỏi mắt đất là nhờ quả bóng đó giữ chúng ta lại, giống như hai viên đá nam châm hút nhau. Tôi nói rằng trái đất quay quanh mặt trời, là một quả bóng to hơn nhiều, cháy sáng.

– Nhưng lớp vở thứ không cũng có lửa cháy mà.

Tôi đáp rằng đúng, trái đất cũng nóng ở phần giữa.

– Nó nằm dưới Xib’alb’a à?

– Không có Xib’alb’a nào cả, – tôi đáp. Hình như tôi hơi cáu kỉnh thì phải.

– Tôi biết là có mà, – Hun Xoc nói, – tôi nhìn thấy nó rồi.

Richard Halliburton, người từng đi khắp thế giới và quay trở về hai lần, kể rằng người ta đã rất ngạc nhiên khi hỏi ông đất nước nào đẹp nhất và nhận được câu trả lời “đó là Mexico”. Nhưng đối với người dân Mexico và những vùng lân cận thì điều đó hoàn toàn chẳng có gì đáng ngạc nhiên, dù từ bấy đến nay, nó đã bị xén tỉa đi rất nhiều, theo đúng nghĩa đen. Và rất nhiều người sẽ khẳng định rằng con đường cổ xưa dẫn từ Veracruz đến Puebla (Veracruz và Puebla là hai bang của Mexico) là con đường đẹp huy hoàng nhất Mexico. Song nếu ai đó muốn lập một kỷ lục đi bộ ở đây thì người ấy chắc chẳng còn hứng thú đâu mà ngắm cảnh. Chúng tôi đi chen lấn và khó nhọc.

Đường luôn có xu hướng dốc lên. Chúng tôi đi qua nhiều làng mạc vô danh tới mức đếm đến 455 thì tôi bị lẫn. Các bạn chỉ cần hình dung ra cụm từ hết làng nọ đến làng kia với một cái gạch ngang trên đầu để thể hiện rằng nó lặp đi lặp lại không bao giờ dứt. Mỗi ngôi làng đều có một hoặc hai kim tự tháp nhỏ xoàng xĩnh nằm chính giữa những túp lều quây thành một vòng tròn. Hàng bầy trẻ con còi cọc và những đám hạ lưu chăm chăm xoáy đồ của khách bộ hành, nhất là những người có vẻ đơn độc, không ai giúp đỡ. Chiều tối, khi chúng tôi đang chạy – nói cho đúng thì những người khiêng kiệu của chúng tôi chạy còn chúng tôi thì chen lấn nhau – giữa hai dãy núi thấp, không có đoàn khách bộ hành nào khác trong tầm nhìn, tôi nghe thấy tiếng một đàn chim từ hướng bắc bay về phía chúng tôi. Điều kỳ cục là xét qua tiếng kêu, đàn chim này dường như bao gồm tất cả các loài khác nhau, mòng két, sáo đá, cú quạ, tất tần tật bay chung một đàn, mà điều này thì không thê. Khi chúng bay ngang qua đầu, tôi nhận ra đó là một đàn gồm hàng trăm con vẹt đuôi dài, giống chim to cồ cộ, pha đủ màu sắc xanh,đỏ,đen, trắng, vàng, không khác gì những con tinh tinh đu bay trong bộ trang phục hề nhưng lại có cái đuôi dài to tướng. Hun Xoc, người đi trước tôi có vài bước chân, nhảy xuống khỏi lưng gã phu khiêng kiệu, bước ra ngoài, khum tay lên miệng và hát to lên với đàn chim:

“Ah yan, yan tepalob’ ah ten Ix tz’am!

Ah ten popop u me’enob nojol…

Hỡi đàn vẹt đuôi dài kiêu hãnh

Hãy đến Ix của chúng ta ở phương nam,

Nói với người già và người trẻ,

Đàn ông và đàn bà,

Hãy hát trong vườn,

Hát trước ngưỡng cửa,

Rằng hãy đợi chúng ta trở về,

Kiên nhẫn và can đảm,

Đợi chúng ta trở về, trở về, trở về…

Đàn chim bay tản ra rồi xúm lại gần nhau, lượng vòng hình bán nguyệt trên đầu chúng tôi, cánh vỗ san sát. Cơn lốc màu sắc khiến màu trắng của trời như bị xé nhỏ ra thành từng mảnh. Vài cục phân chim rơi xuống, suýt chúng người tôi, nhưng rơi thẳng vào ngực Cứt Ta Tu, ừ thì nó ở đó để làm việc ấy mà, – tôi nghĩ. Lũ chim nghe lời bài hát của Hun Xoc và nhai lại với cái giọng khàn khàn nhưng nghe khá rõ, láy đi láy lại và nhỏ dần khi chúng bay khuất về phương nam: “Tu men, t’u men, đợi chúng ta trở về, trở về, trở về…”

Tối hôm đó, Cá Sấu 12 cho đoàn giảm tốc độ, chúng tôi đi bộ thong thả cho thư giãn chân cẳng. Cách đi này giống cách đi trước đây của các hướng đạo sinh, cứ đi bộ ba mươi bước lại chạy ba mươi bước, chỉ có điều, số bước của chúng tôi là suýt soát mười ngàn. Khi đến Những Bàn Tay 31, một nơi gần Córdoba (Một thành phố thuộc bang Veracruz của Mexico ngày nay), chúng tôi thấy Chtlatépetl hiện ra trước mắt . Đó là ngọn núi lửa lớn nhất ở Mexico. Sau này, nó được đặt tên theo tiếng Tây Ban Nha là Orizaba, còn Cá Sấu 12 thì gọi nó là “Nơi Lão Ghẻ Nhảy Vào Lò Bếp”. Một làn hơi mờ mờ bốc lên từ đỉnh núi, nhưng tôi đoán đó chỉ là mây. Theo những gì tôi nhớ được thì lần phun trào cuối cùng của nó cách thời điểm này đã hai ngàn năm và không còn lần phun trào nào đáng kể nữa cho đến tận năm 1687.

Một cái bóng sẫm đổ xuống ngang đường; giây đầu tiên, tôi nghĩ đó là cơn bão sắp ập tới, hoặc một cuộn khói nham thạch đến từ đỉnh núi lửa nào đó đang phun trào quanh đây, nhưng sau tôi nhìn rõ đó là những con chim, chính xác là chim bồ câu; một vài con sà xuống gần chúng tôi, tôi phân vân không biết chúng là giống bồ câu gì bởi chúng có cái ức sáng bóng như thiếc với thiếc màu đỏ nóng lạ lùng, rồi tôi nhận ra đó là bồ câu di cư. Bầy chim nhất loạt đổi hướng và cả bầu trời như biến thành một rừng cây dương hoặc dương lá rung khi có gió bất ngờ thổi tới, những phiến là ngửa cái mặt dưới bàng bạc của mình lên, và đợt sóng sống khổng lồ ấy cuốn thẳng về hướng tây, về phía Nacananomacob, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh. Một giờ đồng hồ sau, vẫn còn những con tụt lại cuối đàn bay qua. Thật khó tin là chúng lại có thể tuyệt chủng, nhưng khó tin hơn là sẽ đến một ngày, chỉ còn lại duy nhất một con và nó sẽ chết vào lúc 12 giờ 30 phút trưa ngày mùng 1 tháng 9 năm 1914. Đến giữa trưa, chúng tôi buộc phải đột ngột dừng lại ở Topacanoc, tức “Đồi Mũi”, vì một sự kiêng kỵ “lối đi”. Hay tôi nên nói là kiêng kỵ “hướng đi”. Sự tình thế này, khi anh đi theo một hướng nhất định nào đó tức là anh đang đặt mình dưới sự bảo trợ của một vị thần nào đó, ngụ trong một quả núi nào đó và anh phải tôn kính vị thần ấy. Trong trường hợp này, Hun Zotz, nghĩa là Dơi 1, vị thần của hướng tây, sẽ khó ở cho đến khi trời tối. Họ không muốn nói cho tôi biết có chuyện gì, nhưng tôi có cảm giác rằng ông ta là một nữ thần và vừa mới đi qua bầu trời. Thật điên ruột. Đừng nổi nóng, – tôi tự nhủ, – không quan trọng đích đến cách bao xa, miễn là luôn hướng đến nó. Và chính granola sẽ đưa ta đến đích.

Giờ một-phần-chín thứ năm của đêm, Người Nuốt ánh Sáng Đỏ xuất hiện. Đó là hiện tượng nguyệt thực một phần. Người ta cho rằng mắt của Người Nuốt ánh Sáng Đỏ tựa như mắt cú, có thể phát hiện ra chuyển động trong bóng tôi. Và ông ta yêu quý nhà Ocelot. Vì thế, chúng tôi phải dừng chân hạ trại tại chỗ, trên một đồng cỏ hoang um tùm ngay sát đường cái. Những tiếng la hét dậy lên, hầu hết từ phía xa vọng lại, nhưng cũng có những tiếng gần hơn so với mong muốn của chúng tôi. Người ta đang ra sức doạ cho cái bóng biến đi. Những giọng nói già nua nhai nhải một thứ tiếng ngọng theo lối cổ nào đó của người vùng này, những từ ngữ địa phương xa lạ của khách bộ hành và người chạy lánh nạn tạm trú ở Choula, thậm chí cả chó, khỉ sóc nuôi trong nhà và mèo rừng cũng hùa theo, chúng sủa, rú, rít và phun phì phì. Tôi trèo lên vài Cứt Ta Tu và nhìn qua đám cỏ cao về hướng thành phố đang chết dần đó. Năm mươi hai vòm cửa trên mặt tường quay về phía tôi của toà kim tự tháp cổ đắp bằng đất sáng rực lên bởi những đống lửa mà các thầy tế vừa nhóm.

Cái bóng màu gỉ sắt đã chạm tới vùng tối Vaporum (Một vùng tối rộng 55.000 km2 trên mặt trăng, có thể quan sát khá rõ từ trái đất) của mặt trăng. Một chuỗi hợp âm bảy rờn rợn mà đôi tai của Chacal nhận ra là tiếng những cây kèn dài và mảnh, dùng để cầu hồn ở Mexico. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc hành trình chúng tôi nghe thấy âm thanh này, nó khiến chúng tôi bất giác rùng mình. Tám trăm năm mươi tư năm sau, những người Aztec đã dùng chính nó để doạ đuổi đội quân của Cortés. Toà kim tự tháp cháy sáng và toả khói như một quả núi lửa. Rốt cuộc, cái bóng đỏ của Người Nuốt ánh Sáng cũng biến đi – theo đúng lịch trình quỹ đạo của nó, tôi đã định bảo cho họ biết điều này, nhưng lại thôi vì muốn tỏ ra khiêm nhường. Những tiếng hò hét reo mừng cuối cùng cũng lắng xuống, chỉ còn bốn hoặc năm tiếng kèn toe toe nhức óc, hỗn độn chen lấn nhau trong một bản hoà tấu nhai đi nhai lại không biết mệt. Thần Thỏ Cái (Tức là mặt trăng) lại toả sáng trên đỉnh kim tự tháp đỏ xám, hơi lưỡng lự một chút, như thể phân vân chưa biết chọn bên nào để hạ xuống. Tôi không ngủ được nữa, nhưng cũng chợp mắt lơ mơ.

Rạng sáng, tốp trinh sát của chúng tôi quay trở về và thông báo có bạo loạn ở Nơi Tổ Tiên Trú Ngụ – đâu đó quanh San Martín Texmelucan (Một thành phố thuộc bang Pueblu, Mexico) ngày nay – ngay trên con đường phía nam gần nhất dẫn lên cao nguyên, qua đèo Cortéz. Con đường leo hết dốc này đến dốc khác, hệt như những bậc cầu thang của người khổng lồ bị mài mòn. Chúng tôi đi qua hàng trăm mẫu đất rừng mới được đốt quang, lác đác những lò nung vội toả khói nom như cái tổ ong khổng lồ. Một quãng sau, ngay cả những thân cây lá rộng mà ở quãng trước được giữ lại vài cây vì lý do tín ngưỡng cũng không còn. Những bụi thông pifion (Một loại thông ở Mexico, cho quả ăn được) và cỏ hoang mạc chiếm hết các dốc núi. Dân vùng này sống trong những ngôi nhà xây bằng đá sỏi cuộn và trồng một loại ngô đen bắp nhỏ xíu. Hàng đống mảnh đá vỏ chai lóng lánh giữa các tảng đá cuội. Đá vỏ chai đối với Teotihuacán cũng như thép đối với nước Anh hay Đức trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Ở đâu người ta cũng có nhu cầu vô hạn về nó, và cũng như thép, nó chính là vật truyền bệnh quân phiệt hoá. Hết lối mòn này đến lối mòn khác hoà vào con đường lớn. Bốn bề ngợp mùi cây tuyết tùng, nhưng không phải từ cây sống, mà từ những đoàn chở gỗ về từ các cánh rừng miền đông bắc. Ban đêm, nhiệt độ hạ xuống còn bốn mươi độ(Tức 400F, tương đương gần 50C), và với chúng tôi, nó chẳng khác nào bắc cực. Bầy chó xua gà gô trắng và giẽ giun bay nháo nhác khỏi những bụi cây bách xù, và thật tài tình. Tay 2 hạ được một con gà gô bằng một mũi lao phóng bằng tay. Để phạt thằng nhãi vì tội phá hàng, Cá Sấu 12 bắt nó đem con gà cho mọt người dân địa phương. Hai đầu gối tôi đã đỡ nhiều nên tôi thử chạy, nhưng khi các đỉnh núi hiện ra trước mắt, tôi cũng đứt hơi như những người khác và phải ngồi phịch xuống một cái ghế kiệu. Cứ để bọn vô sản lo việc này. Tôi mệt đến nỗi chẳng còn hơi sức đâu mà tìm từ lịch sự nữa.

Các đỉnh núi mà tôi nói đến ở đây là Itzaccihuatl và Popocatépetl bên tay trái và núi lửa Volcán Tláloc ở phía xa bên tay phải. Tên người ta gọi chúng vào thời này là Nhà Của Hunahpu 1, Nhà của Hunahpu 7 và Anh Bạn Sôi Sùng Sục. Hầu hết các miệng núi lửa quanh đây đều đã tắt từ kỷ Băng Hà, chỉ có Popo là còn chút dấu hiệu hoạt động với những đám bụi lơ lửng bên sườn phía đông, có lẽ để ủng hộ San Martín. Song tôi nghĩ trận phun trào này nhỏ thôi, chắc chỉ khoảng 1,5 độ VEI (Viết tắt của Volcanic Explosivity Index – chỉ số hoạt động núi lửa, được chia làm 7 cấp độ). Nếu đây là năm 1345, 1945 hay 1996 thì chắc chúng tôi sẽ gặp rắc rối lớn.

Ngày thứ hai mươi của cuộc hành trình, trời nắng, mây rải rác bay về phía đông. Đến giữa trưa, chúng tôi vượt qua đỉnh cao nhất của con đèo, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh, chính là Vùng hồ Mexico sau này, trải rộng dưới chân chúng tôi, cách 4,770 feet theo đường thẳng đứng, được bao bọc trong một địa thế hình hạt hạnh nhân nằm giữa hai dãy núi chạy theo đường vòng cung. Từ đây, có thể thấy nó rộng và tính lặng, xung quanh bờ được viền những ụ đất và miệng núi lửa nhỏ khum khum như hình vỏ sò, sát mép nước xanh thẫm một màu cói và bèo tấm, màu xanh càng lan xa càng nhạt dần thành mặt nước phẳng lặng và lóng lánh như hồ thuỷ ngân. Điểm xa nhất của bờ hồ bên kia cách khoảng bốn mươi dặm. Thung lũng này có người ở, quanh các bờ hồ rải rác làng mạc, chằng chịt những con đường đất đắp nổi; xuồng, thuyền mui và những chiếc bè mảng tròn khổng lồ đông san sát.

Ờ, – tôi nghĩ bụng, – ít ra thì bây giờ mình cũng hết băn khoăn tại sao nơi này lại được gọi là Nacananomcob, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh. Hàng bầybach haob’ và halach bach haob, tức diệc bạch và cò quăm trắng, hàng đàn kuba’ob’, hay diệc cọp, lội bì bõm sát bờ, xa hơn ngoài mặt nước là những con bich ha, sếu đồi cát, lượn vòng quanh với cái dáng cứng đơ theo hàng lối chỉnh tề như đoàn lính bộ binh bị sương giá làm cho tê cứng của Napoleon. Một bầy két cánh đỏ hoảng hốt cất cánh bay lên với tiếng kêu nghe như tất cả các cánh cửa nhà kho ở Old Midwest (Khu vực bao gồm các bang Illinois, Indiana, Michigan, Ohio và Wisconsin của Mỹ) cùng rít lên một lúc trên bản lề han gỉ, và trong vài giây, người ta chỉ có thể thoáng thấy một vài vệt xanh xanh của bầu trời qua khe hở giữa những con chim lúc nào cũng căng thẳng ấy, trước khi chúng cùng đồng loạt đổi ý và lại hạ cánh xuống.Đúng là Nacaranomacob – tôi nghĩ. Nephelococcygia.Thật là thiên đường.

Chúng tôi xuống đèo, đi vào một vùng không khí mà người ta thường thấy ở những vùng hồ trên cao, nó ẩm ướt đến mức tối đa có thẻ, nhưng không khí lại quá loãng nên chẳng tích được bao nhiêu nước. Khi xuống thấp hơn, tôi bắt đầu thấy nơi đây sầm uất đến mức nào. Trên những hòn đảo đẹp hơn, nhà cửa được xây dựng nhiều đến mức kín đặc không khác gì đảo Mont Saint Michel. Người ta buộc phải xây lều ra xa ngoài mặt nước, trên các đống đá, trên các cột chống, thậm chí nhìn như trên không-gì-cả. Nhân tiện nhắc đến chuyện này, Teotihuacán Lớn, cũng như mọi thành phố lớn khác, có đến 95 phần trăm là ổ chuột. Cá Sấu 12 kể rằng rất nhiều người hoặc các hội cứu tế. Hình như Hội cứu tế Rắn Chuông là lớn nhất. Họ phát chuẩn những chiếc bánh vặn thừng dài bằng bột sắn, tựa như bánh bột rán churro ngày nay, mua bằng tiền đóng góp của người đi lễ và tiền thu được qua việc hành nghề xem bói. Khi còn cách khu hồ khoảng hai trăm feet tính theo chiều cao, chúng tôi lọt vào một vùng đẳng áp và quang cảnh bỗng sinh động hẳn. Một con chim cắt mà ở đây gọi là kos lao bổ vào ba con mòng két xanh đứng túm tụm gần nhau, nhưng chúng đập cánh, rẽ lên và bay mất. Một bầy bói cá xanh nhặng xị nhiếc móc con non. Một con chim ưng biển đâm nhào xuống, lùng sục sủi tăm dưới mặt nước hồi lâu rồi ngoi lên với cái mỏ rỗng không. Một đôi cò nhiệt đới halach pocob đầu đen, thân trắng với cái cổ đỏ loè, nom hệt như hai bà xơ dòng thánh Dominic bị cắt họng, sục sạo trong đám cói sậy với vẻ bình thản như thể chúng biết hình phạt dành cho kẻ nào dám sát hại chúng là thiến đến chết. Những con bồ câu Inca lù khù; những con chim cu lười lẫm gấp ba. Ở đây có nhiều thứ nằm trong danh mục những thứ tôi chưa từng nhìn thấy, và đó không phải là trại cải tạo thanh thiếu niên hay bộ lông chim vào mùa sinh sản, hay những thứ vớ vẩn đại loại như thế. Nói chung, nó đủ khiến David Allen Sibley (Nhà điều cầm học người Mỹ) lên một cơn đau tim. Chắc không thể đưa tất cả những thứ này vào danh mục được, – tôi thầm nghĩ, – bộ nhớ không đủ chứa mất. Một đám đông đang hò hét bên dưới, khi đi ngang qua, chúng tôi mới biết rằng người ta đang chơi một trận bóng giải trí, bất chấp bầu không khí lo âu căng thẳng. Họ dùng một loại gậy cong như gậy chơi bóng của người Ai-len để đánh những quả bóng gỗ lớn. Chúng tôi bỏ đám chơi bóng lại phía sau và chạy xuống theo những con dốc thoai thoải, giữa một biển người che mặt, vừa đi vừa lầm rầm cầu khẩn, hầu hết đều xách theo một cái giỏ đựng xương. Đó là những người đang đưa hài cốt cha mẹ đến đặt trong hầm mộ ở thành phố vĩnh cửu để họ được hầu hạ tổ tiên cao quý của dòng tộc mình. Chim chóc thì vẫn nhan nhản xung quanh. Dân ở đây chắc chẳng bao giờ bị đói. Anh chỉ cần chìa tay ra bất cứ chỗ nào mà tóm lấy bữa tối từ trong không khí. Và cứ lấy đi một ngàn của bất cứ thứ gì thì sẽ có mười ngàn khác đến bù lại, ít nhất thì đấy cũng là ý nghĩ của các cư dân thuộc giống người.

Chúng tôi đi qua hàng trăm xưởng thợ ngoài trời, nằm trong sân trước những căn nhà kho mái thấp, trát thạch cao trắng, và cứ ba xưởng thì hai xưởng là xưởng làm lông chim. Thợ đánh bẫy dốc những con chim sống ra khỏi lưới, vặn cổ chúng rồi phân loại thành từng đống, cứ mỗi con, viên kế toán lại thả một cái thẻ đếm vào một trong mấy cái bình và theo dõi tổng số bằng các nút thắt trên một sợi dây. Một người phụ nữ moi ruột và lột da, rồi một người khác vặt lấy lông, gột rửa và phân loại. Hệt như dây chuyền sản xuất tiền công nghiệp, trong đó mỗi người chỉ thực hiện một vài công đoạn nhất định. Một vài gia đình chuyên vặt lông sống những loài không được phép giết, và tất cả những gì anh nghe thấy khi đi qua chỗ họ là tiếng kêu rít đau đớn tột độ của chim diệc và gà chachalaca. Chúng tôi trông thấy hàng ngàn con trụi thùi lụi, loạng choạng đi trong sân, rỉa cá chết, ngô vụn và đập đập đôi cánh nhìn như những cánh tay dị tật vì chẳng còn lấy một sợi lông. Đây là một nền văn minh dựa vào lông chim, không khác gì nước Anh dựa vào gỗ. Thế mà chúng tôi còn mang thêm đến cho họ hai xe cáng đầy lông. Nhưng lông chim của chúng tôi có màu mà ở đây họ không có. Họ có rất nhiều lông màu đen, trắng, xám, đủ sắc độ nâu, vàng nâu, xanh da trời sáng, hồng và đỏ. Còn chúng tôi mang đến màu của rừng sương mù, xanh tím, đỏ tươi, xanh da trời thắm, xanh ngọc lam và xanh lục vàng.

Những toán dân đen lân la lại gần chúng tôi. Phần lớn trong số đó là loại người mà tôi cho là ma’ala’ba’ob, hạng thấp kém hơn cả cái lòng bàn chân của anh. Tôi tuy cố tỏ ra bình đẳng, nhưng phân biệt đẳng cấp lại là một phẩm chất tốt ở đây.

Chúng tôi tiếp tục tiến lên. Đôi lúc, qua dãy đầu người phía trước, tôi chỉ trông thấy những tấm lưới đánh cá chăng phơi trên những cây sào cao có chạc, kéo dài đến hàng dặm. Hun Xoc thì thầm với tôi rằng Bị Thương 14 sẽ ra đón chúng tôi ở bên kia hồ. Họ mới biết tin chúng tôi đến cách đây bốn ngày qua những người đưa tin – chúng tôi không có bồ câu đưa thư, và mặc dù dọc đường từ bờ biển đến đây cũng có hệ thống báo tin bằng lửa báo hiệu nhưng chúng tôi không muốn dùng – song chừng ấy thời gian cũng đủ để họ chuẩn bị sẵn sàng.

– 14 làm như mình là Vẹt Đuôi Dài 7 ấy, – Hun Xoc nói. Câu ấy có nghĩa là “Hắn tinh tường lắm”.

– Ừ, – tôi ra hiệu. Tôi nheo mắt nhìn về phía trước. Có một dãy thứ gì đó nom như những cái cổng chào lễ hội chắn ngang lối dẫn lên một con đường rộng màu trắng đắp cao, dài chừng hai dặm, chạy cắt ngang qua một đoạn hồ hẹp, gần giống như cửa sông đổ vào hồ nước lớn. Khi nhìn gần hơn, cái mà tôi tưởng là cầu tàu té ra là những cái giá bày sọ người. Mẹ kiếp, – tôi nghĩ, – thứ này khiến chúng tôi thành ra như những kẻ đê tiện. Chúng tôi, tức là người Maya chúng tôi ấy mà. Ở nhà, chúng tôi chỉ trưng bày đầu của vài nhân vật đình đám và thi thoảng là đầu của những thằng vô lại. Còn ở đây, hình như họ choảng tất cả những kẻ nào nhìn mình với vẻ là lạ rồi giữ gìn từng cái đầu một như của quý. Những chiếc nằm cuối dãy về phía tây biến dạng đến mức khó mà tin được đó là đầu người. Những gã này chẳng có tí tao nhã nào cả, – tôi nghĩ bụng.

Chúng tôi tặng quà, hoặc có thể gọi là biếu xén, để được đi qua con đường đắp nổi. Ở bán đảo tiếp theo,đám dân đen lao dịch trên bờ hồ đưa chúng tôi xuống hai chiếc bè mảng lớn, mỗi bè có bốn mươi người chèo, đưa chúng tôi sang bờ đông bắc, đến Tamoanatowacanac, nghĩa là Cảng Hồ Của Teotihuacán. Chúng tôi bơi ngang qua một hòn đảo được trưng dụng làm một cánh đồng sản xuất muối khổng lồ. Nhưng tên nô lệ tóc ngắn cụt kéo nước từ dưới hồ lên bằng những cái cần trục đối trọng giống cần kéo nước của người Ai Cập và đổ vào các khuôn ruộng bám mảng trắng rộng hàng mẫu. Một con cò quăm đỏ nhìn tôi như thể nó biết nhiều thứ hơn cả tôi. Thoth (Vị thần tượng trưng cho nghệ thuật và sự thông thái của người Ai Cập, được khắc hoạ với cái đầu của loài cò quăm) cơ đấy, – tôi nghĩ bụng, – Thế ở mày là thứ thần thánh gì?

Bờ hồ được đắp đê và bao một bước tường tạm thời màu xanh lá cây và xám, xếp bằng hàng ngàn thân cây bị đốn hạ, cành lá quay ra phía hồ để những kẻ muốn tấn công phải vướng víu vì nó. Chúng tôi cập bờ tại một khoảng trống giữa bức tường và lấy đi dáng điệu hiên ngang hết mức có thể – điều này không dễ khi bước ra khỏi thuyền – đặt chân lên thành Babel (Ý nói một thành phố huyền thoại).

44

Các bạn có biết những thành phố như Marrakesh (Thành phố từng là thủ phủ của nhiều đế chế tại Ma-rốc) hay Benares (Thành phố thánh của đạo Hinđu ở Ấn Độ) duyên dáng đến mức nào khi xem qua kênh truyền hình du lịch? Nhưng khi ta thực sự đặt chân đến, cái mùi hôi hám và sự bẩn thỉu của nó khiến ta chỉ ước được quay ngay về Tenafly hay bất cứ nơi nào mà ta từ đó tới, bất kể là nơi nào? Tamoanatawacana giống hệt như Benares, chỉ không có tiếng nhạc filmi (Thể loại nhạc thình hành trong phim ảnh Ấn Độ). Đứng đây thôi, tôi đã trông thấy phải đến tám ngàn người lăng xăng chạy đi chạy lại trên bờ hồ để đến đâu đó. Tôi sai phu kiệu nhấc bổng tôi lên để có thể quan sát đám đông từ trên cao. Chúng tôi đang đứng trong một nơi giống như khu thành khép kín, rộng chừng một ngàn sải tay, nằm giữa những bức tường ven bờ hồ sau lưng chúng tôi và một hàng rào chắn cao ở phía đông với những tháp canh xiêu vẹo. Mọi thứ ở đây đều mang một không khí chung của sự chuyên biệt hoá khiến người ta có cảm giác đây là một công viên từng rất đẹp bị cải tạo thành khu căn cứ quân sự, những đám người rách mướp trú tạm trong lều, trong lán, dưới chăn, dưới người nhau và dưới không-gì-cả. Từng tốp hai mươi lính vệ sĩ của nhà Bướm Đuôi Nhạn chậm chạp rẽ lối đi giữa đám đông dân thường, tay giơ những cái néo làm bằng xơ cọ lên đe nẹt những kẻ tỏ vẻ quá hung hăng. Cuối mỗi tốp có một k’iik cầm cây sào dài chừng ba mươi feet với một cái khiên tròn lớn tết bằng lông chim treo cách đỉnh sảo khoảng năm sải tay. Mỗi chiếc khiên mang một hoạ tiết khác nhau mà theo tôi đoán là dấu hiệu nhận biết riêng của từng tốp. Thêm nữa, trên đỉnh sào còn treo bộ da đã thuộc kỹ của một kẻ nào đấy hẳn đã bước chân vào nơi mà hắn không nên vào, hoặc làm điều gì đó mà hắn không nên làm, nó phất phơ lờ đờ như một tấm băng-rôn ướt trước cửa viện bảo tàng.

Trong thế giới này, trang phục chính là giấy thông hành, và một toán vệ sĩ giúp rẽ lối cho chúng tôi đi qua đám dân thường. Đặc quyền đấy, – tôi nghĩ. Chúng tôi lách qua vô số đám động tụ tập xúm xít. Đến lúc này, tôi đã có thể phân biệt được các thị tộc và sắc tộc qua cách ăn vận và dáng vẻ; thêm vào đó, coi như điểm thưởng, là sự liên tưởng đầy vẻ miệt thị của Chacal cũng vào cuộc. Chẳng hạn, cái thứ như váy đàn bà màu da cam mà đám người lùn tít, bẩn thỉu kia đang mặc chứng tỏ chúng là người Cacaxtlan, và đằng kia, một lũ mọi tong teo, dài thườn với…chết mẹ, tôi đang dùng từ ngữ thật xúc xiểm, ở đây, nó là cách xử sự được đánh giá cao, nhưng ở thế kỷ 21, như thế là rất, rất, rất, tệ… những gã tong teo, da dẻ nứt nẻ vì nằng, báo trước bệnh ung thư kia là người Chanacu, thuỷ tổ của người Mixtec sau này, đến từ vùng núi quanh Zempoaltépetl. Mấy gã cao nhẳng, còm nhom, bị trói chẳng lại với nhau, với những mụn ghẻ mới nổi và túi cát đeo vào mắt cá chân để tự hành xác sám hối này không phải là nô lệ mà chỉ là người Yaxacan, đến từ nơi xa xôi nhất về phía tây bắc của thung lũng để chuộc lại một món nợ ô nhục nào đó. Còn một lô trắng nhởn, bé xíu, lấm lét, gần như trần trụi với những cái khuyên môi to tướng và mớ tóc xén hình bát úp trát bùn kia đến từ phương nam rất, rất xa, có khi từ tần Costa Rica để bán những con ếch và côn trùng bé xíu rên bằng vàng, một thứ kim loại còn rất mới lạ ở đây. Một tiểu vương người Zapotec, khắp mình lanh canh những mảnh vỏ sò màu vàng, đi ngang qua chúng tôi, cưỡi trên vai một tên khổng lồ mắc hội chứng hypertelorism (Một hội chứng làm dãn khoảng cách giữa hai bộ phận của cơ thể một cách dị dạng, thường là giữa hai mắt), cao phải đến bảy feet. Có hai tộc người với vẻ ngoài giống người phương tây, đó là người Taxcan đến từ ven biển Thái Bình Dương và một tộc người nữa mà tôi không nhớ ra được là người gì, một kiểu dân chài vận đồ da lươn và đeo răng cá mập; bốn gã đang ngồi chồm chỗm trên một hình chữ thập vạch xuống mặt đường, chơi một ván cờ Hiến tế đơn giản có tính chất cờ bạc, những gã còn lại đứng vây xung quanh, bàn tán xôn xao. Trò chơi thật ngu xuẩn, – tôi nghĩ thầm trong bụng. Sự khác biệt giữ cờ Hiến tế và thứ mà họ đang chơi cũng tương tự như khác biệt giữ bài bơ-rít chuyên nghiệp và trò “đi đêm”, nhân thêm một trăm lần. Hun Xoc chỉ cho chúng tôi một toán người phương bắc cao lớn, quê mùa, mặc đồ da hươu, được cho là đã đi mất nhiều năm qua những vùng sa mạc phía bắc để đến đây từ một trong những đế quốc mới hình thành dọc bờ sông Mississippi, đoạn chảy qua Ohio – điều này khó tin, nhưng cũng có thể. Họ bán một loại đá xanh lam mới có, đắt vô cùng và chưa từng được biết đến ở những vùng đất của người Maya: ngọc lam. Phía trước chúng tôi, có tiếng ai đó đang bị đánh đập. Bên trái thì có một gã “chiếu rong”, hạng người chuyên đứng ra bán đấu giá con cái của những người từ xa đến để chao mẹ chúng có tiền vào thành. Hắn xách một thằng bé bốn tuổi trần truồng, giơ lên cao quá đầu để rao hàng, thằng bé bị xách bằng một sợi thừng buộc vào bàn chân, đầu kia buộc vào cổ tay gã bán hàng, vì thế, nó cứ chúc đầu xuống, ré lên ầm ĩ. Một nhóm k’iik Maya đứng cạnh chúng tôi; những gã vận quần áo bằng thứ vài tồi tự dệt lấy ở nhà nhưng lại để kiểu tóc chơi trèo quá lố này là người Yucatecan; còn mấy anh chàng có vết khắc nung hình hoa lá trên nửa trái cơ thể thì là người Coliman, họ đến đây để bán đồ gốm cho từng nhà, người ta cấn chúng để thay thế cho những đồ gốm sẽ bị đập nát trong thời gian “Im lặng”. Hình như – tôi chưa chắc điều này lắm – họ cho rằng bất cứ thứ gì không có linh hồn, tức là những vật dụng như vũ khí, dụng cụ hay thậm chí làm mâm bát, đều có thể bị ma ám vào lễ vọng và quay ra tấn công chủ nó. Tôi liền hình dung ra cảnh một bà nội trợ to béo xua tay loạn xạ trong bóng tối, kháng cự lại một đoàn quân nồi niêu bát đĩa bằng đât nung hung hãn. Nói tóm lại, anh phải đập vỡ hết những thứ đó và mua đồ mới. Có khi đây chỉ là một mánh khoé kinh doanh để người ta bán được nhiều hàng hơn cho nhau. Thay vì chiến lược xoá xổ những cái lỗi thời, tức là phải thường xuyên đưa ra mẫu mã mới, thì người ta chỉ việc xoá xổ tất tần tật.

Chúng tôi chen lấn để đi về phía hàng rào chắn. Dẹp ra nào. Các VIP đây. Có vẻ không dễ mà vào được. Một dãy k’iik của thị tộc Bướm Đuôi Nhạn với dáng điệu uể oải nhất có thể của lính thời bình đứng chắn lỗ hổng duy nhất trên bức rào. Phía sau họ, qua đám mây hơi nước bốc lên từ hàng trăm thùng tắm hơi, có thể trông thấy một con dốc đắp cao, san sát những căn nhà kho mới lợp cùng hàng đống cây gỗ đã chặt bỏ cành lá và đẽo nhọn. Tôi đang lan man nghĩ đến chuyện có khi chúng tôi đi cả chặng đường đến đây mà chả được việc gì thì chợt nhận thấy mọi người rục rịch sắp hàng để đón nhận sự hiếu khách của chủ nhà, và Cá Sấu 12 đang được chào mừng bởi năm k’iik Maya chẳng biết từ đâu thình lình xuất hiện. Hun Xoc chỉ cho tôi một người: Bị Thương 14 lừng danh, cháu nuôi của Sọ Đá Quý 2.

Hắn ăn vận xem ra hơi đẹp quá mức cần thiết cho một dịp như thế này, nhưng người thì lùn hơn so với chiều cao trung bình của quý tộc Maya và bộ mặt bên dưới chiếc mặt nạ che mũi thì hoàn toàn nhạt nhẽo. Hắn là người đứng đầu cái mà các bạn có thể gọi là phái bộ thương mại của thị tộc Đại Bàng ở Teotihuacán. Thực ra, nó hơi phức tạp hơn như thế một chút vì nhà Đại Bàng là thành viên của tổ chức tựa như liên minh các thị tộc hậu duệ chim ưng, và gã này có quan hệ làm ăn với rất nhiều vụ làm ăn ở vùng đồng bằng và mặc dù không phải công dân của thành Teotihuacán – bản thân định nghĩa này khá dễ thay đổi – hắn vẫn có rất nhiều mối quen thân quyền cao chức trọng ở đây.

Bị Thương 14 đứng giữa bốn k’iik vây bốn góc quanh hắn. Đó là mấy thằng nhà quê ở Ix lang bạt, có thể là chạy tị nạn đến đấy, và bằng cách nào đó được thu nhận vào thị tộc này. Tuy khuôn mặt là của người Maya nhưng ở họ vẫn toát ra vẻ gì đó của bọn ngoại tộc, vói cái áo choàng xếp nếp cứng đờ và bộ da bóng loáng mỡ chó nhuộm đó. Cả bốn cùng đeo tanasac, một loại khuyên hình mào gà xâu qua cái lỗ giữa vách ngăn mũi, đu đưa phía trên miệng. Chúng tôi gợi nhớ đến những bộ ria mép hình móng ngựa thời Victoria, nghiêm trang thì có nghiêm trang, nhưng cũng đầy hăm doạ. Chúng khiến khuôn mặt trở nên khó xét đoán một cách đáng kinh ngạc. Lý do người ta đeo chúng có lẽ là vì ở một thành phố bề ngoài phi bạo lực thì việc nhe răng doạ nạt bị coi là quá hung hãn. Người ta cho rằng miệng người phả ra những cơn gió thổi mang theo ghẻ lở. Xét ra thì điều đó cũng chẳng cách xa sự thật là bao. Nó cũng tựa như bùa mê từ cặp mắt quỷ, chỉ khác rằng ở đây là miệng quỷ. Và nếu tanasac của anh bị tuột ra, anh phải đưa tay lên che miệng như phụ nữ Nhật Bản khi họ cười khúc khích vậy.

Không dễ dàng gì, nhưng cuối cùng người dẫn đầu đoàn chúng tôi cũng nắm được quyền chỉ huy và dẹp được một khoảng trống nhỏ giữa đám đông.

– Hãy để chúng tôi thiết tiệc các vị, đừng từ chối miếng bánh của chúng tôi, – 14 nói bằng cái giọng của người hút thuốc lâu năm nhưng hãy còn ngọt. Tôi không quan sát được nhiều khuôn mặt hắn, nhưng cặp mắt hắn có vẻ gì đó như thằng hề.

– Đa tạ các ngài đã cho phép chúng tôi nương nhờ, – Cá Sấu 12 kính cẩn đáp. Hun Xoc trải ra một tấm chiếu lễ vật và Cá Sấu 12 đặt lên đó một bó xì gà hảo hạng nhất vùng cao nguyên chúng tôi.

Chúng tôi nhảy một điệu chào mừng ngắn. Bị Thương 14 đặt tay lên vai hắn, chào tôi lịch thiệp nhưng cũng không kém phần trịnh thượng, kiểu như “Ê, chào thằng em”. Hắn đã từng tiếp đón Cá Sấu 12 và hai k’iik khác trong đoàn. Nhưng hơn hai mươi năm rồi hắn chưa về Ix, và phúc tổ, hắn cũng như gia quyến của hắn chưa từng nhìn thấy Chacal. Tôi cũng chào lại, coi như hắn là người bề trên. Đây không phải lúc để tự ái về chuyện tôn ty trật tự. Trong lúc đó, bọn phu khuân vác lọ mọ đi đằng sau đã bắt kịp chúng tôi, lục tục trình diện, quây quanh vòng tròn k’iik như sợi thừng quấn quanh cái xô. 14 nói hắn rất nóng lòng muốn chia sẻ khó khăn với chúng tôi và rằng nhà Bướm Đuôi Nhạn đã quyết định chặn các ngả đường sớm hơn dự định nên chúng tôi phải nhấc chân lên thôi. Phải rồi, – tôi nghĩ, – thế suốt bao nhiêu ngày nay chúng tao làm gì? Nằm ườn ra ăn kẹo bon bon à? Thằng xuẩn.

Thành thạo không kém gì một đội nghi thức, chúng tôi xếp lại hàng ngũ theo đội hình “họp mặt với khách lạ mặt khá quan trọng”. Nói đơn giản là cáck’iik xếp thành hình nửa vòng tròn. Cá Sấu 12 đứng chính giữa, những người tham dự đứng thành ba hàng phía sau, theo thứ thự giảm dần theo phẩm cấp. Họ đặt tôi ở cuối hàng, gần vị trí thấp kém nhất để tôi khỏi phải mở miệng câu nào.

Ở đây, mọi thứ dường như đếu có tính hậu trường. Anh buộc phải có một vài mối quan hệ nào đó. 14 đã dàn xếp trước với nhà Bướm Đuôi Nhạn. Bức tường rào k’iik từ từ tách ra rồi lại khép lại sau lưng người cuối cùng, như một con trùng a-mip nuốt trùng bánh xe. Nếu đây chỉ là bức rào bình thường chứ không phải hàng rào người thì đã có vài tên du côn lẻn được vào. Lúc này, chúng tôi đã đứng trong một khu đất thô kệch nằm giữa bức tường rào và một con đèo dẫn lên đồi, dài chừng một sải tay. Củi đun chất thành từng đống cao ngất và áo choàng bông chăng đầy trên dây phơi, không khác gì cái sân chung sau khu nhà tạm của dân da trắng. Trong này trống trải hơn bên ngoài và chúng tôi tìm được một khoảnh đất sạch. Đám phu khuân vác lúc nào cũng kè kè cái giá chở hàng cao quá đầu, cuối cùng cũng được cởi bỏ và đặt sang một bên. Họ có vẻ lo lắng khi phải xa người đồng hành thân thiết của mình. Xiềng xích của ta và ta đã trở nên gắn bó (Một câu trong bài thơ “Người tù ở Chillon” của thi hào Byroe). Một đoàn những nhân vật có vẻ ngoài kì dị, đến từ một trong các thị tộc của Teotihuacán, gọi là thị tộc Sếu, giữ chức vụ tựa như thanh tra thuế, lôi hàng ra kiểm tra. Cá Sấu 12 và người đứng đầu đám người của thị tộc Sếu chọn ra một món làm quà cho quả đồi, một kiểu thuế qua cửa. Viên kế toán đi quanh, thắt những cái nút hình nơ bướm trên sợi dây thành một bản kê dài. Chúng tôi tháo bỏ vũ khí và một vài loại vật dụng bị cấm như bất cứ thứ gì màu xanh lá cây, bất cứ thứ gì làm từ da rắn và bất cứ đồ lề bóng hông nào. Những trận bóng hông với bóng lớn được coi là một cuộc chiến, hoặc có thể gọi là thi đấu võ thuật, vì thế, chúng bị cấm ở đây. Thực tế, môn bóng duy nhất hợp pháp ở đây là trò đánh bóng bằng gậy mà chúng tôi thấy lúc trước, và không có cá cược công khai. Tôi nhận thấy Hun Xoc và những người chơi bóng hông khác lấy các mảnh vài đính hạt quấn kín các vết chai trên cánh tay và đầu gối. Ở xứ này, dân chơi bóng chuyên nghiệp bị coi là hạng người bất hảo.

– Tôi có được mang theo cứt trong bụng không? – Tay 2 hỏi viên kế toán bằng tiếng lóng của nhà chúng tôi. – Hay tôi phải để nó lại đây?

Viên kế toán trả lời rằng hắn không hiểu sao lại thế.

– Vì tôi muốn lấy lại nó khi quay về – Tay 2 đáp.

Chúng tôi phải khoác lên người những chiếc áo choàng màu xám đen, xỏ khuyên mũi và đeo khuyên môi. Tôi cũng được thửa riêng một cái – anh không bao giờ được đeo đồ của người khác – nhưng nó không vừa. Cái đồ chết toi. Người ta không được để mặt trơ khấc ra khi bước vào thung lũng thiêng này. Ngay cả bọn đầy tớ cũng phải buộc một miếng giẻ quanh miệng, nhìnnhư lũ ăn cướp Miền Tây. Gì thì gì, anh không bao giờ có thể tưởng tượng ra thứ đồ trang sức đàn ông nào khó chịu hơn thứ này. Tôi đã từng nhìn thấy những cái khuyên xỏ âm vật chu vi bốn inch dễ chịu hơn nhiều. Chắc thế.

Tên hầu lo khoản mặt nạ chạy tíu tít để giúp chúng tôi chỉnh trang, hệt như người làm tóc trước buổi trình diễn mốt. Trong khi đó, những tên đầy tớ riêng ngắm nghía và chỉnh đốn điệu bộ cho chúng tôi. Chúng rất cung kính, nhưng chúng tôi vẫn phải làm theo lời chúng. Tôi đoán cảnh này cũng giống như viên thị thần chỉ bảo cho chúng. Tôi đoán cảnh này cũng giống như viên thị thần chỉ bảo cho Hoàng tử xứ Wales phải đi đứng theo cách này cách nọ. Từng người trong chúng tôi – kể cả nô lệ – đều phải nhắc lại một câu thề thốt hoà bình ngăn ngắn, bằng tiếng của chúng tôi lẫn tiếng Teotihuacán, gồm những chuỗi từ dính liền nhau dài bất tận, đầy những nguyên âm kéo cà kẽo kẹt một cách dị hợm và hầu hết chúng tôi dều không hiểu chúng có nghĩa là gì. Lời thề đại ý rằng chúng tôi không bao giờ được phép giơ vũ khí về phía bất kỳ, luôn phải che miệng và có mặt để cúng tế vào buổi sáng và buổi trưa. Tiếp đó, mỗi người chúng tôi phải ném một món đồ phục sức vào đống lửa. Hoá ra bọn hầu trang phục buộc vào cổ chân chúng tôi một sợi ruy băng là vì việc này. Ghi được điểm rồi đấy, các cậu, – tôi nghĩ. Tôi suýt thì định vứt cái thắt lưng vào. Và rồi, tất cả chúng tôi phải bước qua một bụi dây bìm bìm – uay của đường biên giới mà những thứ vô hình không thích hợp không vượt qua được. Cuối cùng, những người dâng hương tẩy uế cho chúng tôi lần nữa bằng khói bốc ra từ một cái tẩu khổng lồ và đưa cho mỗi người một vật nhỏ bằng đất sét.

Tôi nhìn cái của tôi với ý nghĩ rằng “cảm ơn, nhưng tôi biết làm gì với nó bây giờ?”, giống như nếu người ta phát ống píp và thuốc lá trong lễ tốt nghiệp của trường đại học Yale vậy. Nó là một cục đất sét trơn, thô, hình thuôn thuôn, vừa mới ra khỏi lò nung, có hai cái lỗ, hai chỗ trũng hay chỗ lõm gì đấy. À, đây rồi. Hai cái lỗ được nhét đầy bột than chì nghiền lẫn với nhựa cô-pan và ướp tinh dầu bạc hà. Nó là một cái lư hương.

Chúng tôi ra hiệu chào tạm biệt, rẽ sang hướng đông và đi lên con đường rộng, để lại khu hồ phía sau lưng. Tôi nhận thấy bốn gã cao lớn, ăn vận như đầy tớ nhà Bướm Đuôi Nhạn đã gia nhập đoàn chúng tôi từ lúc nào. Ra là người giám sát, – tôi nghĩ. Lũ mật thám. Cá Sấu 12 đã thông báo từ trước là sẽ có các tsazcalaman, những “người dẫn đường” hay “người tiếp đón”, và dặn chúng tôi đừng để ý đến họ trừ khi họ nói điều gì đó. Tốt thôi. Hãy cứ coi chúng như những người trực tầng khách sạn. Vì lợi ích của chính mày.

Không như đa số các thành phố khác thuộc Mesoamerica, Teotihuacán có rất ít công trình củng cố quân sự, chỉ độc mấy bức tường đá thấp tè dựng ở vài nơi trọng yếu. Tôi có cảm giác rằng thành phố này từ lâu đã hoang tưởng rằng mình không thể bị tấn công. Gần đây, họ bắt đầu dựng chướng ngại vật bằng gỗ có thể di chuyển được, hay gọi theo lối thời kỵ binh xưa là chướng ngại chặn ngựa, tức là những thân cây được chặt bỏ cành lá đặt nằm ngang, trên cắm những cái cọc ngắn hơn, vót nhọn, cứ ba cái một, cách nhau vài sải tay, tạo thành mọt dãy chông chĩa ba dựng đứng. Chúng tôi đi ngang qua bốn tốp nô lệ đang kéo những cây chông đó đến nơi mà ngày mai họ sẽ đặt chúng ngang đường. Ngoài ra, còn thêm ba đường hào khô mới đào, bên dưới cắm chông mà chúng tôi phải vượt qua trên những cây cầu bện. Một cái nhìn chông chênh đến mức tôi tụt ngay khỏi lưng tên phu kiệu để tự đi. Cá Sấu 12 trừng cặp mắt sâu hoắm nhìn tôi, nhưng phô trương mẽ ngoài thế là đủ. Tôi lại trèo lên lưng con chiến mã người của mình.

Chim chóc lác đác dần. Những đám chơi bóng mà chúng tôi bỏ lại phía sau cũng ỉu xìu và nhạt nhẽo hẳn. Tiếng sấm bắt đầu dậy lên. Không, không phải sấm… mà là tiếng trống, – tôi tự nhủ, – những chiếc trống đá lớn, nghe đầm và hay lạ, hệt như tiếng trống định âm trầm, rền lên từng hồi với quãng nghỉ dài: bombombombombom, bom…bombombombombom, bombombom… bombombombombombom… và tôi phát hiện ra nhịp trống tương ứng với các con số của ngày hôm nay: Wak Kimi, Kanlahun Sip – Hấp hối 6, Nai đực 14, nó lặp đi lặp lại với nhịp điệu rất đặc biệt, không ai có thể bắt chước được 6 . . . 14 . . . 9 . . . . 11 . . . . . 12 . . . . 6 . . . . bombombombom, bombombombom . . .bombombombom . . . bombombombombombom . . . Đó là tiếng trống cầu nguyện vào lễ trưa. Đoàn chúng tôi đi chậm dần rồi dừng lại. Tôi nhận được tín hiẹu xuống “ngựa”. Chết tiệt. Từ quãng này trở đi, chúng tôi sẽ đi bộ. Xe kiệu là thứ không được phép ở thành phố thiêng liêng này, và anh không được phép cưỡi trên lưng người khác trừ phi anh là thằng liệt.

Cả đoàn đã dừng lại. Tất cả hướng mặt về phía trước, hướng đông bắc. Lũ chim đậu xuống. Chúng tôi lấy lư hương của mình ra. Một hồi boom boom vọng đến từ sườn núi phía trước, từ thành phố linh thiêng. Có tiếng trống đáp lại từ xa tít bên kia hồ, chậm nửa nhịp để hoà vào với tiếng vọng. Tiếp đi nào, – tôi nghĩ, – Rock the Casbah (Một bản nhạc rock của ban nhạc The Clash). Tiếng trống ầm ầm vang khắp các thung lũng và vạn vật dường như co rúm lại. Những tiếng trống nhỏ hơn của nhà dân cũng hoà vào nhịp điệu cho đến khi chúng chuệch choạc rời xa thành hàng trăm, rồi hàng ngàn âm thanh nhỏ hơn, lạc điệu đi và cuối cùng chỉ còn là những tiếng lạch cạch không phân biệt được nữa. Những người châm lửa đi khắp đoàn với những bó đuốc thông cháy dở, một người châm lư hương cho tôi. Hắn lầm rầm câu gì đó về việc đây là lửa tinh khiết lấy từ kim tự tháp Bão Lốc. Mình có nên boa cho hắn không nhỉ? – tôi bất giác nghĩ, nhưng hắn đã biến mất. Ah, mùi nhựa thông thật tinh khiết. Mùi của sự trong lành. Oái. Tôi làm bỏng ngón tay cái. Quỷ bắt mày đi. Tôi xoay xoay cái lư và giơ nó lên ngang chân để chỗ khói chưa bị hít có thể bay lên. Hai bên đường, đàn bà, trẻ con và người già tụ tập trên các mái nhà kho, tay nâng lư hương. Không kẻ nào đứng trong phạm vi của thành phố này có thể tránh được nhiệm vụ trình diện trước mặt trời vào mỗi sáng và mỗi trưa. Kể cả anh đã một trăm tuổi đi chăng nữa, kể cả liệt hết chân tay đi chăng nữa, kể cả trời đang mưa như trút nước đi chăng nữa, anh cũng phải đứng ra ngoài trời, mà nhất là khi trời mưa, thật đội ơn cái cơn mưa chết tiệt ấy. Và nếu họ không kéo được anh ra ngoài thì họ sẽ treo cổ anh lên. Vì thế, ra hít thở tí không khí trong lành là điều bắt buộc.

Tiếng trống lắng xuống, nhường chỗ cho tiếng khấn râm ran, rền rĩ, phát ra từ sâu trong cổ họng bằng một thứ tiếng xem ra ít phụ âm hơn cả tiếng Hawaii. Tôi chỉ lầm bầm theo dưới cái khuyên môi. Về sau, tôi nghe nói rằng thực ra chẳng ai nhớ được đống từ ngữ ấy có nghĩa là gì. Có lẽ tất cả cũng đều lầm bầm theo mà thôi. Ê…a…ê….a… Đừng để ý tôi. Tôi cũng chỉ là một con trong đàn cừu thôi mà.

Tiếng cầukhấn dừng lại. Như mọi người xung quanh, tôi bốc ít cát dưới mặt đường để dập tắt lư hương. Chúng tôi leo lên những bậc thang cuối cùng, bước vào một bầu không khí mát mẻ hơn, qua một cổng chào lễ hội lớn, nhìn giông giống cổng Karamon (Kiểu kiến trúc cổng theo lối cổ ở Nhật Bản),qua đỉnh một…

– B/aax ka mulac t’een? – Tay 2 thắc mắc. “Thế thành phố đâu?”.

PHẦN III

THÀNH PHỐ LƯỠI DAO

45

Một biển sương mù lấp lánh trọn thung lũng dưới chân chúng tôi, duy nhất có một chỏm núi tù, Cerro Gordo – Đỉnh Núi Trắng của thành phố, vạch một nét lên bầu trời xám xịt. Chúng tôi đang đứng trên một con đèo tại điểm xa nhất về phía nam của lòng chảo, trước mặt là con đường đẽo thành hình bậc thang thoai thoải giữa hai dãy nhà trại lớn, vuông vắn, tường trát thạch cao, chạy xuống nơi mà tôi biết là một cánh đồng phù sa bằng phẳng. Không phải sương mù, – tôi nghĩ lại, – nó có màu xanh lam. Đó là khói, khói nhựa cô-pan bốc lên từ hàng trăm ngàn lư hương nhỏ. Rất lâu sau, lớp khói trên cùng của cái lòng chảo không khí im lìm mới tản bớt một chút, cho phép chúng tôi nhìn thấy một, rồi ba đốm sáng màu da cam giữa khoảng không mờ mịt, cao gần ngang vị trí chúng tôi đang đứng, đốm xa nhất dựa vào vách núi Cerro Gordo, rồi đến hai đốm gần hơn, phía trên tay phải. Và rồi, những hình thù dưới các đốm sáng hiện dần lên, tôi nhận ra chúng là những đống lửa được đốt trên đỉnh ba kim tự tháp lớn. Kim tự tháp của Phù Thủy Ngọc Bích nằm ở tận cùng phía Bắc là chiếc xa chúng tôi nhất, bên tay phải là kim tự tháp Bão Lốc khổng lồ, và cuối cùng, gần nhất và nhỏ nhất, là kim tự tháp màu xanh chàm của những đứa con của Rắn Chuông Sao. Nhiều đốm sáng khác le lói giữa khoảng không mờ xám, tất cả đều là lửa thắp trên đỉnh của hàng trăm kim tự tháp nhỏ, tuy không cao bằng ba gã khổng lồ kia nhưng cũng chẳng phải những thằng lùn. Khói bốc cao lên và tản đi, thêm nhiều hình thù trở nên rõ nét, hệt như Brigadoon (Ngôi làng thần thoại ở xứ Scotland, cứ một trăm năm mới xuất hiện một lần) dần hiện ra giữa sương mù; mỗi lúc một nhiều khối vững chãi được từ từ bồi đắp thành hình như những mảnh đá mặt trăng tích tụ lại trong bình thí nghiệm; một khung xương rời rạc đang biến hình thành một quang cảnh lộng lẫy và hùng vĩ.

Khi lần đầu tiên nhìn thấy nó dưới hình dạng một đống đổ nát vào một ngàn ba trăm năm mươi mốt năm sau, tôi đang là một thị dân cuối thế kỉ hai mươi, đã quá quen với việc nhìn ngắm từ trên không và những tòa nhà cao chọc trời, vậy mà vẫn còn thấy choáng ngợp. Vậy thì với một thổ dân Mesoamerica vào thế kỉ thứ bảy, không nghi ngờ gì nữa, đây chắc chắn là thiên đàng dưới trần gian, chưa từng và sẽ không bao giờ có thành phố nào vĩ đại hơn, được thần linh tạo ra trước khi con người có mặt trên đời, và ngày này, người cai trị nó chính là hậu duệ của các vị thần, ngồi ở trung tâm của hai mươi ba tầng vũ trụ, nơi không kẻ nào có thể chạm tới. Không từ ngữ nào trong tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ch’olan, tiếng Klingon(Ngôn ngữ tưởng tượng của người ngoài hành tinh trong phim Star Trek) hay bất cứ thứ tiếng nào khác có thể diễn tả được sự kì vĩ phi phàm của thành phố này trong thời kì cực thịnh. Trước khi nhìn thấy những đám đông, anh đã có thể nghe và cảm thấy họ, như khi đặt tay lên tường ngoài của một cái tổ ong, anh có thể cảm thấy bên trong nó đầy nhung nhúc những đốm đen, vàng và xám. Không thể nào có đủ nhà cho toàn bộ số người này được. Đây không thể là số dân thường ngày. Chắc họ phải ngủ cả ngoài trời, chồng chất lên nhau. Chật cứng, chật cứng…

Cũng như Ix, chỉ một số rất ít công trình xxây dựng của thành phố này tồn tại được đến thế kỉ 20. Nhưng không như Ix, những đám đổ nát ấy đã được khai quật và trùng tu từ đầu thế kỉ 20. Tôi đã đến đây tham quan vài tuần vào năm 1999 và biết rất rõ bản đồ dựng lại theo nghiên cứu khảo cổ. Và bây giờ đây, tôi mới thấy công trình phục dựng của Viện Lịch sử và Nhân chủng học vụng về và sai toét đến mức nào. Nhưng ngay cả nếu nó có hoàn hảo đi chăng nữa thì những gì sót lại đến thời điểm đó cũng quá ít, có quá nhiều thứ mới lạ ở đây đến mức tôi khó lòng nhận ra thành phố này chính là nơi tôi từng tìm hiểu. Cái mà khách du lịch được nhìn thấy là phần trung tâm còn sót lại của khu teocalli (Nghĩa là “Ngôi nhà của thần linh”trong tiếng Nahuatl, dùng để chỉ các kim tự tháp có đền thờ trên đỉnh), một đống đá nâu nằm trơ trọi. Còn lúc này đây, cái trung tâm đó chỉ là phần tráng lệ hơn một chút của cả một thành phố đông đúc, đồ sộ, cứ trải rộng mãi theo hình dáng của những chiếc tổ ong đan cài vào nhau khiến người ta có cảm tưởng đó là một chứ không phải nhiều ngôi nhà, chúng giăng chật kín thung lũng, bò lan lên các dãy đồi và lên tận đỉnh Cerro Gordo, một cảnh tượng của sự nhân tạo hóa triệt để như ở Hồng Kông hay Las Vegas chứ không phải ở một thế giới tiền hiện đại. Không trông rõ đường phố bởi chúng chỉ là những lối đi hẹp giữa những tòa nhà lớn, hay chính xác hơn là những khu gồm nhiều căn nhà của các gia đình có quan hệ dòng tộc, vì thế, nhìn từ đây, các khu dân cư nom giống một thành phố Trung Đông hơn bất cứ kiểu đô thị nào khác ở Cựu Thế Giới, chỉ khác ở những điểm nho nhỏ như màu sắc và kiểu cách. Giống như Manhattan, thành phố được phát triển hơn lệch về hướng đông bắc, khoảng 15,25 độ, để thẳng hàng với Kochab (Tức Beta Uriae Minoria, ngôi sao trong chòm Tiểu Hùng), một dãy sân trũng xuống và những bức tường khán đài rộng nối thành một hàng dài thẳng tắp mà sau này người Aztec gọi là Dãy Phố Thần Chết trải dài trước mắt chúng tôi. Thực ra, nó hoàn toàn không phải là một dãy phố, theo cách nhìn của chúng ta ngày nay, nó thậm chí chẳng phải một đường rước lễ mà chỉ là một dãy quảng trường nối liền với những ngọn tháp cao dựng đứng mà chưa ai từng nghĩ đến trong quá trình phục dựng. Để hình dung cho rõ, tôi nghĩ có thể gọi nó là trục chính của thành phố. Đến lúc này, đã có thể thấy rõ màu đen và đỏ của kim tự tháp Bão Lốc, màu đen và trắng của kim tự tháp Phù Thủy Ngọc Bích, và màu đen và xanh da trời của kim tự tháp Rắn Chuông Sao. Bão Lốc to lù lù như một quả tim đập vào dãy đồi và… ôi trời, nó còn hơn cả to lớn nữa, nó ở một tầm vóc khác hẳn, nó được xây nên không phải dành cho con người. Người ta có thể cảm thấy sức hút ghê gớm của nó, dường như nếu đặt một quả bóng thép xuống mặt đường phẳng, nó sẽ tự lăn về phía ấy. Trên đỉnh tháp, vẫn ngọn lửa ấy đã cháy liên tục hơn bốn mươi tư năm, kể từ khoảng trống trước trong chu kỳ (Tức lần nhật thực trước), nhưng họ sẽ dập tắt nó sau mười một ánh sáng nữa tính từ hôm nay để khỏi coi thường Prank – Người Nuốt ánh Sáng Đen. Sau đó, khi nhật thực kết thúc, họ sẽ lại thắp nó lên bằng chính ánh sáng mặt trời. Đây là điều hiển nhiên bất di bất dịch đến mức đơn giản là nó không cho phép bất cứ sự phản đối nào. Nhưng ai nghĩ đến chuyện phản đối cái sự ấy làm gì?

Và đây, đã có thể trông rõ kim tự tháp Phù Thủy Ngọc Bích – rất lâu sau này sẽ là kim tự tháp Mặt Trăng – nhìn xuống dãy phố lớn. Chỗ chúng tôi đang đứng còn cách quá xa nên không thể nhìn thật rõ qua màn khói và hơi nước, nhưng hình như có những vệt gì đó đang bu đầy quanh nó. Chim à? Hay tôi hoa mắt? Kim tự tháp lớn thứ ba, tỏa màu xanh, công trình duy nhất có màu xanh trong thành phố. Đền thờ của Hội Rắn Chuông Sao, nằm đúng nơi nó nên nằm, chềnh ềnh ở phía đông nam, cuối trục đường chính, như quân xe nhảy bổ vào vị trí quân vua vừa đi qua. Nó nhỏ hơn hai kim tự tháp kia nhưng lộng lẫy hơn hẳn và vẫn đủ to lớn để không kẻ nào dám cà khịa, thực tế, nó lớn hơn khá nhiều so với công trình được phục dựng lại nhiều thế kỉ sau, khi người ta khám phá được một mặt tiền có niên đại còn sớm hơn nữa. Tòa tháp có ít nhiều dáng dấp của phong cách Maya phương nam với tường ngoài chạm hình rắn cuộn vào nhau, tuy thế, kiến trúc vẫn được hình khối hóa, lập thể hóa, Mexico hóa, hay gì gì đó khiến nó vừa hài hòa lại vừa không hài hòa với phần còn lại của thành phố, một phần không cân xứng và chông chênh hơn.

Ở trung tâm của trục đường chính, giữa quảng trường lớn đối diện Bão Lốc là công trình thứ tư, chưa có trên bản đồ trong đầu tôi. Sọ Đá Quý không nhắc đến nó, và giới khảo cổ cũng không tái hiện lại. Sao họ có thể bỏ sót nó được cơ chứ? Giời ạ, một hình nón dốc đứng,dựng thẳng lên trời như một ngón tay màu xanh lá cây, cao lừng lững không kém gì tòa kim tự tháp. Khi nhìn thật kỹ, tôi nhận ra nó là một kiểu giống như tòa tháp không có vách tường, cao mười ba tầng, mỗi tầng cách nhau chừng năm sải tay. Một đám đông lúi húi đi lại quanh nó như kiến bò, trần trụi với những vệt xám trên người: những tên nô lệ. Tôi đoán rằng nó được bện bằng thân sậy và gỗ tươi, có lẽ là đây chính là xcanacatl, lửa-dâng-cho-hư-vô mà Cá Sấu 12 đã nói tới. Nó sẽ được dựng xong và chất đầy đồ cúng trước lúc nhật thực, khi nào các thầy tế đuổi được Người Nuốt ánh Sáng đi, họ sẽ đốt bỏ nó bằng lửa tinh khiết của bình minh thứ hai.

Kim tự tháp của Phù Thủy Ngọc Bích nhòm xuống con đường chính, y như ông tướng dự buổi duyệt binh, nhưng kim tự tháp Bão Lốc thì đối diện một khoảng trống không. Phía bên kia trục đường chính chỉ có một quảng trường cỡ vừa để cân đối với tòa tháp, nhưng cũng chẳng cân đối được, gã khổng lồ to kềnh nhìn đăm đăm cô độc về hướng tây với vẻ hiu quạnh. Người nhìn nó bỗng có cảm giác băn khoăn, như khi nhìn một bức tượng cẩm thạch cổ tạc hình một vận động viên với cánh tay giơ lên, nhưng cánh tay lại gẫy mất từ phần bả vai, và người ta thắc mắc không biết anh ta đang giơ tay chào? hay đang ném lao? hay đang vung gươm? Hoặc như khi anh nghe đoạn đầu của một khúc nhạc mà không thấy đoạn kết, nó khiến anh bứt rứt đến mức phải tự nghĩ ra một đoạn kết mà ngâm nga ư ử trong họng. Nó gợi lên một cảm giác mong ngóng đến lạ lùng… không hẳn là sự trống trải, mà chỉ là sự chờ đợi, cảm giác của một người phụ nữ cô độc bên bàn ăn lớn chờ đón một vị khách quan trọng từ ngoài kia sắp bước vào.

46

Đám phu khuân vác ngần ngại. Tên khiêng kiệu của tôi lầm rầm mấy câu khấn vái bằng thổ ngữ làng hắn…”xin các cụ trông nom che chở con” hay những câu gì đó đại loại vậy, nhưng Cá Sấu 12 buộc họ phải đi tiếp. Chúng tôi đi xuống thung lũng. Cái khuyên môi của tôi đẫm nước nhỏ giọt và vách mũi nhoi nhói. Vì dốc núi có bậc thang nên nó không phải chạy ngoằn nghoèo như các con đường núi ở Cựu Thế Giới. Mấy lần liền tôi tưởng mình sắp lao xuống. Mùi ớt hong khô, ngô luộc, phân cháy và vị khen khét của đá cuội và đá thủy tinh mới bửa bay tạt qua. Tiếng lạch cạch và ken két liên tu bất tận vọng đến từ các phường làm dụng cụ bằng đá cuội, hệt như tiếng của hàng ngàn con bọ nhảy cánh cứng và ve sầu. Một gã quản lý tạm trú có bộ mặt trắng bợt của thị tộc Kền Kền đến ghi lại tên tuổi, chức danh và tổng số người của đoàn chúng tôi, đánh dấu lại trên một chùm những sợi thừng con queo như cái vòng quipu (Còn gọi là “những cái nút biết nói”, một dụng cụ để ghi nhớ số lượng, gồm những sợi dây và những nút thắt với đơn vị quy ước sẵn) của người Inca.

Chúng tôi tập hợp lại. Nòng cốt của đoàn chỉ còn lại hai mươi người. Không có vẻ là dấu hiệu tốt. Chúng tôi tiếp tục đi xuống. Khi Bão Lốc vươn đến ngang tầm chúng tôi, các cạnh của nó xoay chuyển theo một nhịp điệu khó hiểu, các tầng tháp hiện ra rồi lại biến mất, dựng đứng, thoai thoải, rồi lại dựng đứng, như một hợp âm nhạc jazz.

Khi gần xuống đến thung lũng, cách khu teocalli khoảng nửa dặm, chúng tôi rẽ sang hướng tây, rời khỏi trục đường thông thương, tiến vào một nơi mà các bạn có thể gọi là đường hẻm dành cho khách bộ hành. Nó đông nghẹt những người là người. Mấy gã do Bị Thương 14 cử đi len lên đầu đoàn, xua xua những cái néo để gạt lũ dân đen ra khỏi lối của chúng tôi. Tránh đường, tránh đường cho Đức cha Coronel. Chúng tôi ì ạch lết qua một dãy cửa mới bị đóng chặn lại, hay đúng hơn, vừa bị bít lại bằng đá tảng và chằng thừng dây leo. Hừ, sợ lộn xộn à? Quá nhiều thủy thủ trong thành phố sao?

Đám dân thành phố rẽ sang hai bên khi chúng tôi đi qua. Họ nhìn chúng tôi chằm chặp, không có vẻ gì thù địch, nhưng hiếu kỳ đến mức khó chịu. Có lẽ chỉ vì chúng tôi không vẽ mặt. Người Maya chỉ vẽ mặt vào một vài dịp đặc biệt, nhưng người Teotihuacán thì cứ hễ ra đường là vẽ mặt. Nhưng kiểu vẽ mặt ở đây rất khó hiểu, họ bôi những vạch dài màu tối ngang qua mắt, làm mất hết đường nét khuôn mặt và khiến ai cũng giống ai, chỉ khác nhau ở những vệt chấm – dấu hiệu riêng của từng thi tộc mà đằng nào tôi cũng chẳng hiểu. Một vài người nổi cả mụn nhọt dưới lớp màu vẽ và rất nhiều người tỏ ra ốm yếu. Cơ man là tiếng ho hắng và khạc nhổ. Có bệnh lao ở đây rồi, – tôi nghĩ bụng. Trẻ con sinh ra sẽ chẳng đủ bù người chết. Chắc phải có khối bệnh nhiễm trùng ký sinh, có khi cả bệnh dịch lạ nữa cũng nên… hừ, hay quá rồi, chúng ta chỉ cần có thế nữa thôi.

Chúng tôi tiếp tục len lách lên phía trước. Người mỗi lúc một đông đặc thêm. Tôi bắt đầu có cảm giác ghê ghê với nơi này, ý tôi là ghê hơn một ngàn cảm giác ghê ghê khác tôi vẫn có. Thứ gì làm mình khó chịu nhỉ? – tôi phân vân. Không chỉ vì nơi này bẩn thỉu, thực ra, nó khá sạch sẽ. Cũng không phải vì nó đầy rẫy những kẻ ám muội. Những người chúng tôi đi ngang qua đều có vẻ là tầng lớp trung lưu. Anh sẽ không bao giờ thấy cái không khí ấy ở các thành phố Maya. Ở Ix chẳng hạn, anh hoặc là kẻ cực kỳ quý phái, hoặc ngược lại. Có lẽ chỉ vì tất cả các bức tường ở đây đều được quét than, nhìn như những thỏi than chì đen xỉn, hơi gợn lóng lánh. Cảm giác đứng giữa một thành phố đen xì thật kỳ cục. Tuy nhiên, nó không đen tuyền như khi nhìn từ trên đèo xuống. Quãng nào có vỉa hè đều được lát đá đỏ, trên các khuôn của sổ cao đều chăng những mảnh vải nhiều màu sắc, vô số chuỗi vỏ sò và tràng hoa lá rủ xuống từ mái hiên khiến thành phố có cái không khí um tùm, sum xuê như vườn treo Babylon… thế nhưng… có lẽ vì nó chẳng có lấy một chữ chạm khắc nào. Không hề có. Không một ký hiệu, khộng tượng đài chạm khắc, không bảng yết thị, không gì hết. Đúng như Cá Sấu 12 đã nói, ngôn ngữ ở đây không có chữ viết. Hình như ở đây người ta khó chịu với nó như một khoản phải chi tiêu thêm. Nói chung, trừ một vài người hành nghề kế toán học được chữ viết từ những người chép thuê Maya, còn tất cả dân chúng thành Teotihuacán đều mù chữ. Tuy vậy, họ vẫn quản lý tốt thành phố về mặt hành chính. Chúng tôi rẽ sang hướng bắc, vào một con hẻm thậm chí còn tối tăm hơn.

Sao chúng tôi lại phải vào khu trắng (tức là nửa đen) nhỉ? – tôi phân vân. Tôi cá rằng nửa đỏ của thành phố dễ chịu hơn nhiều. Mà thế quái nào nửa đen lại được gọi là nửa trắng cơ chứ? Chẳng khác gì ở Mỹ, cái thứ mà người ta gọi là “bang đỏ” (“Bang đỏ” là từ chỉ các bang có đa số ủng hộ đảng Cộng hòa, trái với “bang xanh” ủng hộ đảng Dân chủ.) chẳng hề đỏ, thực tế, họ còn có khuynh hướng chống cộng hơn. Nó được gọi thế chỉ để khiến người ta rối lên.

Mỗi nhà trong thành phố đều phải thuộc một trong hai nửa. Thị tộc Kền Kền, nửa trắng, hay nửa “hòa bình” chỉ yếu sống ở phía tây – tức màu đen – so với trục đường chính của thành phố. Có hàng trăm gia tộc lớn thuộc phe trắng, nhưng lớn nhất là gia tộc Bìm Bìm. Trưởng lão của gia tộc này là một người có tên Chuột Lang 40, người mà Sọ Đá Quý 2 cho tôi biết là cha nuôi của công nương Koh, đồng thời là quan chấp chính của Giáo hội Trắng. Hình như ông ta còn có một tước hiệu nữa là “Thủ lĩnh Hòa Bình”. Nửa kia, nửa đỏ, thị tộc Bướm Đuôi Nhạn, từ trước đến nay vẫn do gia tộc Báo Sư Tử cầm đầu. “Thủ lĩnh Chiến Tranh”, người đứng đầu gia tộc Bướm Đuôi Nhạn là một người có cái tên hết sức lạ tai đối với tôi: Cong Veo Ti Tiện. Theo truyền thống, nửa Trắng lo các mặt nông nghiệp, phân bổ nguồn nước, “tôn giáo” (theo cách gọi của chúng ta ngày nay), buôn bán và đa số nghề thủ công. Nửa Đỏ lo mảng chiến tranh cũng như các nghề thủ công liên quan đến khí cụ và buôn bán với bên ngoài. Các bạn hẳn nghĩ rằng kiểu phân chia như vậy sẽ là công thức nấu món “xung đột”, nhưng vì ở đây không có chuyện kết hôn nội tộc – tức là một phụ nữ thuộc tộc Kền Kền buộc phải lấy một người đàn ông của tộc Đuôi Bướm Nhạn và ngược lại – nên hai nửa có những mối ràng buộc chặt chẽ và phụ thuộc nhau. Trong suốt nhiều thế kỷ, sự cân bằng giữa hai nửa vẫn được duy trì, có lẽ nhờ một nguyên tắc gần như xã hội chủ nghĩa. Thủ lĩnh của các thị tộc không được phép có quyền lực bên ngoài thị tộc của mình và thành phố không được cai trị bởi một nhân vật duy nhất nào, nó được quản lý bởi một hội đồng gồm những người đứng đầu của hàng trăm gia tộc lớn đến từ hai nửa.

Chúng tôi rẽ thêm một lần nữa vào một con hẻm hẹp hơn. Nó chặt cứng đến mức người ta phải quay lưng nép mình lại để nhường lối cho chúng tôi. Sau khi đi thêm một đoạn nữa, rốt cuộc chúng tôi cũng được dừng lại. Người đưa tin của Bị Thương 12 leo lên một cầu thang dốc. Chúng tôi theo sau, đi qua khoảng hai tầng nhà, lên tới ánh mặt trời sáng trắng.

Chúng tôi đang ở độ cao ngang tầm kim tự tháp Bão Lốc và bao quát khá tốt toàn bộ khu nhà trắng. Những mái nhà bằng có bậc thang giăng khắp bốn phía, xen lẫn các vườn hoa và cây ăn trái mọc trong các luống đất bùn dung nham trộn phân bắc. Những cuộn hơi nước của nhà tắm bốc lên qua các lỗ thông hơi nằm ở vị trí khuất và nhanh chóng tan biến trong bầu không khí khô khan. Một vài khu nhà xây lên tới ba tầng, nhưng phần lớn đều ở cùng một độ cao nên người ta có thể đi từ nhà này sang nhà khác qua các cầu hẹp, tương tự như ở các pueblo (cộng đồng sinh sống theo kiểu truyền thống của người da đỏ ở vùng tây nam nước Mỹ) hay khu phố cổ của các thành phố đạo Hồi của Châu Phi. Sau lưng chúng tôi, đám phu quân vác hai tay dâng các gói đồ. Tôi ra hiệu “sẵn sàng” và chúng tôi đi về hướng bắc qua các cây cầu ván kẽo cà kẽo kẹt. Hun Xoc chỉ cho tôi những dãy bình lớn đậy nắp ở rìa các mái nhà và nói rằng chúng đựng nước để phòng khi có hỏa hoạn. Cuối cùng, chúng tôi lập bập bước sang mái nhà của trụ sở giao dịch của thị tộc Đại Bàng. Đó là một khu lớn gồm nhiều tòa nhà, nơi sinh sống của các gia đình Maya thuộc các thị tộc hậu duệ của loài chim, đến từ một vài thành phố dưới đồng bằng. Đang có một vụ ầm ĩ dưới lòng đường trước mặt chúng tôi, chúng tôi không nhìn rõ là vụ gì. Nhưng như có kẻ đang bị nện cho một trận. Thằng đầy tớ riêng của Bị Thương 14 gào vọng xuống để hỏi xem có chuyện gì, và thế là chúng tôi lại phải dừng lại một lúc để nghe ai đó gào lên giải thích toàn bộ câu chuyện, rồi lại đến ai đó nữa gào lên giải thích theo một cách khác hẳn. Đồ chết dẫm, làm gì có lắm thời gian thế, – tôi nghĩ bụng. Tôi len đến chỗ Cá Sấu 12.

-Chúng ta nên gửi người đưa tin đến chỗ công nương Koh ngay, – tôi nói bằng ngôn ngữ của thị tộc Đại Bàng.

-Ta nên chờ đến khi được che chở, – Cá Sấu 12 trả lời, ý nói “được vào trong nhà”. Ông tanói rằng không phải là ý hay khi giở các món hàng ra ở nơi mà những kẻ cha vơ chú vào có thể nhìn thấy.

Đúng thế thật, – tôi nghĩ. Thiên hạ đang tụ tập xúm xít trên các mái nhà xung quanh để hóng xem có chuyện gì. Tôi ra hiệu “cũng được”.

Tôi quay lại chỗ của mình trong hàng, sốt ruột nhấp nhổm trên hai chân.

Bị Thương 14 quay lại và giải thích sự việc chúng tôi đang nghe thấy. Hình như một người phụ nữ đang bị hành hình bởi tay các thầy tu của giáo hội Bìm Bìm, những kẻ mà tôi đoán là tương tự như lính Taliban, chỉ vì một tràng hắt hơi trong buổi lễ vọng hồi trưa.

Cá Sấu 12 ra lệnh cho chúng tôi không được xuống dưới phố. Ông ta nói chúng tôi không được phép đi vào qua lối cửa chính. Thay vào đó, chúng tôi phải leo xuống theo một đường nửa như cầu thang, nửa như thang đứng, xuống một cái sân trong nhỏ. Nó rộng chừng ba mươi sải vuông, trống không trừ một cái bàn thờ đặt ở chính giữa với bốn tượng thờ tổ tiên bằng gỗ lớn đặt ở bốn góc và bốn cánh cửa nhỏ trên bốn bức tường. Chúng tôi tự động tập hợp lại ở góc phía đông khoảnh sân, hướng mà từ đó chúng tôi đến. Nhóm người của Bị Thương 14 đứng ở góc phía tây. Toàn gia, ít nhất là năm mươi người, đã đổ ra để giương mắt nhìn chúng tôi. Một phút ngượng nghịu. Trước khi được ngồi trong nhà ai đó thì người ta phải hỏi xin được bước vào đã. Cá Sấu 12 giậm chân ra hiệu một cái, chúng tôi lấy xì gà ra và bắt đầu nghi thức chào hỏi. Tôi cảm giác hình như Bị Thương 14 và người của hắn vẫn đang soi tôi bằng khóe mắt. Tôi biết vài người trong số họ đã từng xem Chacal chơi bóng. Nhưng nhìn tôi bây giờ khác hoàn toàn rồi, phải vậy không? Có lẽ họ nhìn chỉ vì tôi có bề ngoài ấn tượng thôi. Tôi đang dần nhận ra tôi có vẻ ngoài khá ấn tượng và cá tính, hơn nhiều khi còn là Jed. Chacal từng là một vận động viên chuyên nghiệp, và mặc dù tôi đã cố điều chỉnh vận động theo cách riêng của mình, nhưng cơ thể anh ta vẫn tự điều khiển mình như trước. Giống như khi anh gặp vận động viên bóng rổ hàng đầu, anh sẽ chẳng cần đến một giây để khẳng định anh ta là người đặc biệt. Tôi lại cảm thấy sự lo lắng hồi hộp. Sọ Đá Quý 2 đã tập cho tôi cách chào hỏi xã giao với gia đình Bị Thương 14, cách đi đứng ở Teotihuacán, cách cúi mình hoặc đứng trên kẻ khác, chỉ cho tôi vị trí ngồi so với Cá Sấu 12, so với cái bếp lò, so với kẻ hầu người hạ riêng, dạy tôi khi nào được nhìn lên, khi nào nên nhìn xuống, vân vân và vân vân. Nhưng ngay cả như vậy, vị trí trong đoàn của tôi vẫn không rõ rệt khiến hai bên đều khó xử. Mà ở đây, chỉ cần đứng sai hướng thôi, ví dụ vậy, anh cũng có thể đã khiến ai đó cảm thấy bị xúc phạm. Cẩn thận đấy, – tôi tự nhủ. Đừng lo lắng quá, nhưng phải thận trọng, Hun Xoc nhích lại gần tôi hơn một chút, hoặc để khiến ai khác khó soi vào mặt tôi, hoặc để tỏ ý đứng về phía tôi. Cảm ơn, – tôi nghĩ thầm trong bụng, – cậu quả là một anh chàng tử tế.

Bị Thương 14 dẫn chúng tôi tới trước bức tượng gỗ ở góc đông nam. Đó là tượng một người đàn bà xấu xí, to bè, gần như trần trụi trong tư thế ngồi, nhỏ hơn kích thước thật một chút, hình như không phải tổ tiên như lúc nãy tôi tưởng, mà là Phù Thủy Ngọc Bích. 14 và một tên hầu nắm lấy hai cái đòn trên vai bức tượng, quỳ xuống và nâng nó lên. Chỉ có nửa trên nhấc lên. Nghĩa là bức tượng mở ra như một con trai há miệng. Toàn bộ nửa trước của bức tượng hạ xuống, một nửa của mỗi cánh tay và mỗi bên cẳng chân khoanh lại chạm xuống bắp đùi. Bàn chân và nửa sau nằm yên trên bệ đá. Bên trong nó có chứa đầy những con búp bê bằng đất sét nhỏ xíu được tô vẽ nhiều màu, khoảng sáu mươi con cả thảy. Chúng được buộc vào khắp các vị trí chứ không chỉ ở phần thân chính, cả phía sau cánh tay, cẳng chân. Tôi đoán mỗi con tượng trưng cho một người của gia đình 14. Có lẽ những con búp bê matryoshka được làm ra dựa trên cùng một ý tưởng như thế này. Một tên hầu bước tới với cái khay gồm hai mươi con búp bê nữa, mỗi con tượng trưng cho một người trong số chúng tôi, và chúng tôi đứng xung quanh trong lúc một thợ vẽ tô cho mỗi con một màu để phân biệt.

Tôi liếc sang Hun Xoc. Cái trò điên dở gì thế này? – ánh mắt của thằng bé đáp lại. Tôi nhìn đi chỗ khác để khỏi cười. Tay thợ vẽ đưa cho tôi con búp bê của tôi. Một cục đất nặn bằng khuôn thô thiển, rẻ tiền với cái mũ to xù kiểu Teotihuacán, chẳng có tí gì giống tôi trừ những vạch màu đỏ trên thắt lưng. Nhưng tôi đoán tôi đã cầm rồi thì bây giờ nó là của tôi. Tôi đợi đến lượt mình và đưa nó cho tên hầu. Hắn buộc nó vào một cái mấu nhô ra ở mông trái bức tượng. Vị trí có thể hiện ý nghĩa gì không nhỉ? – tôi phân vân, – hay chỉ vì họ còn mỗi chỗ ấy thôi? Cá Sấu 12 lưỡng lự một chút trước khi đưa bức tượng của ông ta. Đây là một trò vẽ vời kiểu Mexico. Không phải phong tục của người Maya. Tôi có cảm tưởng rằng Cá Sấu 12 thấy Bị Thương 14 bị ảnh hưởng phong tục bản xứ hơi nhiều quá. Khi ai nấy đã vào chỗ, họ đóng bức tượng lại. Tôi bất giác cảm thấy như bức tường đó vừa khép lên chính người tôi và bây giờ tôi an toàn, ấm cúng giữa một cộng đồng lớn với tự do cá nhân về không. Có lẽ ở Teotihuacán này là như vậy, các kim tự tháp nhỏ xúm lại quanh kim tự tháp lớn, các quảng trường nhỏ dựa vào quảng trường lớn và mọi điều đều dựa vào một thứ gì đó khác.

Bây giờ chúng tôi đã là người trong nhà và được mời vào phòng tắm hơi. Khi chúng tôi xếp hàng nối đuôi nhau đi qua cổng vòm phía bắc, Cá Sấu 12 nói vài lời xin phép và ông ta cùng Hun Xoc, Bướm Đêm – viên kế toán, kiêm thầy ký, kiêm thầy khấn của chúng tôi – và tôi tách ra, khom người chui qua một cái cửa ngách. Như thế là không lịch sự, nhưng Cá Sấu 12 đã từng đến ngôi nhà này và ông ta có vai vế hơn bất cứ ai ở đây. Chúng tôi cần một chút riêng tư, nhưng căn phòng đầu tiên chúng tôi thử bước vào bốc mùi kinh người, hóa ra cái mùi đó bay ra từ một đám năm đứa nô lệ. Chúng mới chừng tám tuổi, đang nhẫn nại quỳ trong một góc tường, bị trói lại với nhau bằng một sợi thừng mảnh có tính chất tượng trưng. Một đứa rùng rùng mình vì mấy con ruổi bậu trên vai nhưng cũng không đập. Nhẫn nhục quá. Chúng tôi đi qua một khoảnh sân khác. Có những bể chứa nước, những cây lê tàu trồng trong sọt, những chiếc áo choàng màu vàng phơi trên giá và những người phụ nữ trong tấm quechquemitl vàng – tức là tấm vải hình tam giác mà các cô gái quấn thay áo cánh – đang nhuộm những dải gì đó trong một chiếc thùng. Mọi thứ đều có vẻ bình thường, – tôi tự nhủ, – đừng lo lắng. Chúng tôi tìm thấy một căn phòng trống tối hơn. Nó có vẻ tạm bợ như hang động của bọn kẻ cướp, với những súc vải chất đống cạnh tường và những chiếc hũ lớn, hình thù cho thấy đó là hũ đựng muối tinh. Một tên hầu của 14 cũng bám đuôi chúng tôi vào, nhưng Cá Sấu 12 lừ lừ nhìn hắn với ánh mắt tăm tối đến mức hẳn phải lùi ra. Hun Xoc giờ cái gói của mình và lôi ra món quà mà chúng tôi mang theo làm lễ vật cho công nương Koh. Đó là một chiếc hộp to bằng đầu người đựng bốn trăm miếng da lông ức của chim đuôi seo đực. Khi nó mở hộp vào kiểm tra, những sợi lông ánh lên như chất phóng xạ trong bóng tối lờ mờ. Một món quà thật lạ thường, tốn đến hàng trăm ngày công lao động và trị giá tương đương thứ gì thì có trời biết.

47

Điểm độc đáo của người Maya chúng tôi là cho dù có vô số sách vở nhưng chúng tôi không hề có văn hóa thư từ, ý tôi muốn nói đến những thứ như thiệp báo hay thư tín. Người ta không thực sự gửi cho người khác các giấy tờ có chữ viết, và nếu thi thoảng có thì cũng chỉ có tính chất nghi thức và luôn đi kèm theo thứ gì đó, giống như tấm thiệp gửi kèm quà tặng. Không ai gửi gấp cho ai một bức thư bao giờ. Chính vì thế chúng tôi mới dùng đến những người ghi nhờ như Bướm Đêm 3, họ có thể nói được mười thứ tiếng, là những tay chạy đường trung có đẳng cấp, được tôi luyện để coi thường sự tra khảo, có thể nghe một bài diễn thuyết dài đúng một lượt và thuật lại vào bất kỳ lúc nào mà không hề quên sót hay nhầm lẫn. Vì thế, tôi đoán rằng việc tôi đang làm đây có chút cải tiến. Hừ, đến lúc này, chúng ta chắc phải quẳng cái nguyên tắc giữ mình nhún nhường đi. Làm gì cũng được, miễn sao thu hút được sự chú ý của người phụ nữ đó. Ngay cả khi nó có làm người ta trợn tròn mắt lên một tí.

Cá Sấu 12 hỏi Hun Xoc và tôi xem chúng tôi có muốn thêm gì vào bức tường thông điệp mà Sọ Đá Quý 2 đã thảo sẵn không. Chúng tôi đáp rằng không. Ông ta nhắc lại nội dung thông điệp chính. Bướm Đêm 3 nhắc lại lần nữa. Đó là lời thỉnh cầu một cuộc diện kiến và đồng thời cảnh báo rằng chúng tôi, với tư cách là sứ thần của một phần dòng tộc của công nương, có nghĩa vụ phải thông báo với bà về mối nguy hiểm. Tuy nhiên, chúng tôi chưa biết bà ta sẽ đón nhận nó như thế nào. Lòng trung thành của bà ta có thể sẽ bị chia rẽ.

Cá Sấu 12 nói rằng trên đường tới đây, ông ta đã tìm hiểu được chính xác công nương Koh đang ở đâu. Tôi lo lắng không biết liệu ông ta có đủ kín đáo khi tìm hiểu thông tin ấy không, ừ, lão ta cũng không ngoan lắm, – tôi tự trấn an, – không có chuyện gì đâu, chắc chắn là không có chuyện gì. Ông ta nói với chúng tôi rằng bà ta đang ở trong tòa nhà phía đông tu viện. Tiếp đó, chuyện này khiến tôi ngạc nhiên, ông ta nói chúng tôi sẽ chờ thêm hai một-phần-chín nữa và ông ta sẽ phái hai người của Bị Thương 14 đi cùng.

Cả đoàn hộ tống nữa cơ đấy, – tôi nghĩ bụng, – quỷ tha ma bắt chúng đi, còn gì là bí mật nữa.

Chúng tôi ngồi chờ trong phòng chờ của nhà tắm hơi với Bị Thương 14, thằng đầy tớ riêng của hắn và một đứa con của hắn tên là Ngọc Giá (Một loại cây thuộc họ thừa) Trái. Chúng tôi đã làm tóc xong xuôi. Ở thành phố này, anh lúc nào cũng phải bảnh bao hết mức có thể. Hệt như một nhân vật cỡ bự muốn khuếch trương sự vụ gì đó, cứ phải đi dự hết đám hội hè này đến đám hội hè khác, tốn hàng giờ mỗi ngày với trò trang điểm và tóc tai trong khi thì giờ đó có thể dùng vào khối việc bổ ích hơn. Hun Xoc và tôi đã vấn xong kiểu tóc Teotihuacán, bôi một lớp dầu mỏng hơn, không tết nút hay đính hạt. Đa phần người Ix đều quá kiêu hãnh, hoặc nói theo cách khác là quá tự tôn dân tộc, để làm những chuyện như thế này, nhưng chúng tôi cũng muốn hòa nhập nếu tình thế bắt buộc. Chỉ sướng một nỗi là chúng tôi được tháo khuyên mũi ra.

Người Teotihuacán nổi tiếng kiệm lời chứ không thích tán dóc như người Ix. Bị Thương 14 và bộ quần thần nho nhỏ của hắn đã học được lối cư xử đó. Nhưng Cá Sấu 12 đã khéo léo khơi được chuyện với hắn và lúc này, hắn đang kể cho chúng nghe chuyện hơn một ngàn người Maya đang sinh sống ở đây như thế nào – thời này, chúng tôi chưa có khái niệm “Maya” mà chỉ có tên các thành bang mà tộc người chúng tôi sinh sống – và trong số đó chỉ có ba mươi người đến từ Ix, trong đó, mười tám người thuộc các thị tộc dưới quyền nhà Đại Bàng, những người khác thuộc các dòng tộc có quan hệ với nhà Mèo Rừng. So với hàng trăm người Ti’kalan ở đây thì cộng đồng đó tương đối nhỏ. Và vì gần đây, Bị Thương 14 buộc phải tránh mặt những người liên quan đến nhà Mèo Rừng nên tôi đoán hắn cảm thấy hơi cô độc.

Cá Sấu 12 hỏi liệu bon Mèo Rừng có nổi đình nổi đám lắm không. Trong số tất cả những người sinh sống ở Teotihuacán này, đó là những kẻ chúng tôi cần tránh nhất.

-May cho chúng ta là chúng phải sống cùng nhà Báo Sư Tử, – Bị Thương 14 đáp, – và bọn ấy thì ngày càng quá thể.

Theo 14, tình hình hiện tại của Teotihuacán không thể kéo dài lâu hơn được nữa. Chalco, Zumpanco và năm thành bang khác trong vùng kinh tế khổng lồ của Thung Lũng Mexico – nằm nhẫn nhục dưới trướng của Teotihuacán đã nhiều thế kỷ nay – bắt đầu trì hoãn cống nộp. Tai hại nhất là họ không gửi thêm củi đốt đến các lò nung vôi của thủ phủ Teotihuacán nữa. 14 không nói gì thêm về chuyện này nhưng tôi đoán rằng qua nhiều năm, việc phá hại rừng đã gây ra cảnh lụt lội, xói mòn đất đai và bùn lấp mà chúng tôi đã chứng kiến suốt chuyến cuốc bộ xuyên thung lũng này.

Tuy thế, 14 nói, người di cư vẫn đổ về thành phố đông hơn bao giờ hết, nhất là bọn Quá-Cao. Hắn nói bọn Quá-Cao là rắc rối lớn nhất ở Teotihuacán. Có đến “bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm gia đình bọn người đó ở đây. Đó là một thành ngữ ý nói rất đông. Nếu tất cả số đó cùng hợp sức lại, chúng có thể tàn phá thành phố này. Đó là con cháu của lũ vô lại, đó là lý do vì sao chúng bốc mùi hôi thối đến vậy. Chúng phải bị quét sạch khỏi thành phố.

Vấn đề nằm ở chỗ Teotihuacán buộc phải đón tiếp bất cứ ai đến với nó. Tại thời điểm này, dựa trên những gì tôi được nghe kể về ngôn ngữ của người Quá-Cao, tôi suy đoán rằng họ là những tộc người mà con cháu sau này chính là, hoặc rất gần gũi với người Toltec. Vì thế tôi thấy hơi tò mò về họ. Nhưng 14 nói bọn Quá-Cao là lũ “sỏi mù” thấp hèn – tôi không hiểu như thế nghĩa là gì nhưng không có dịp hỏi – đã bị đá khỏi thành phố của chính mình, lang thang khắp nơi để nhòm ngó xem có gì cuỗm được hay không. Theo tôi tìm hiểu được, thành phố của họ nằm cách đây khoảng một trăm dặm về phía bắc. Tôi không xác định được nó là thành phố nào trong những thành phố tôi biết. 14 cho biết hắn từng đến đó, và rằng đó là một nơi lộn xộn, thấp hèn, man mọi kinh tởm, nơi bọn trẻ con ăn cứt và hàng bầy du côn chạy qua các sân nhà.

-Nhà Báo Sư Tử săn đuổi chúng trên vùng đồi, – 14 nói, – nhưng họ không thể làm thế ở duới thung lũng.

Đã có nhiều vụ lộn xộn và ẩu đả trên đường và lính của Nhà Báo Sư Tử bắt đầu trở nên hống hách không chịu được. Vài mùa hòa bình qua đã bắt đầu xảy ra tình trạng hiếm lương thực và “ghẻ nâu”, một loại bệnh dịch nào đó – tại những khu nghèo nhất của thành phố. Năm nay, mưa gió lại thất thường, mùa thu hoạch tới được dự báo là tồi tệ nhất trong bảy mươi mốt năm qua.

Và cuối cùng, 14 nói, căng thẳng giữa Hội Rắn Chuông Sao và hai Giáo hội lớn của thành phố mỗi một lúc tệ hại. Theo cái cách mà hắn giải thích, tôi có cảm tưởng rằng tình hình ở đây tương tự như ở Rome vào thế kỷ thứ 7. Tín ngưỡng thờ Rắn Chuông đang lan rộng, nhất là giữa các bộ tộc không có bếp lò và người ở nhà tròn, nghĩa là những bộ tộc hèn kém đang liên tục đổ về thành phố. Hội Rắn Chuông Sao tiếp nhận ngày một nhiều tín đồ hoặc người cải đạo thuộc cả hai nửa đỏ và trắng của thành phố, những kẻ đang chán ngán với những cái mà anh có thể gọi là sự lố bịch hóa của xã hội Teotihuacán. Hình như Hội Rắn Chuông đem lại cho họ một thứ tôn giáo ít tôn ti thứ bậc hơn, ít ràng buộc với tổ tiên hơn, với những vị thần bảo trợ không ngự ở bất kì đền thờ nào trên trái đất mà trên chính dải ngân hà. 14 nói rất nhiều trong số những người cải đạo “cắt máu” với chính công nương Koh đầy quyền năng.

Tín ngưỡng thờ Rắn Chuông từa tựa như phong trào cải đạo Tin Lành, như Akkhenaton (Vị hoàng đế cai trị Ai Cập vào giữa thế kỉ 14 trước công nguyên, người tiến hành việc cải cách tín ngưỡng, chuyển từ thờ cúng đa thần sang thờ phụng thần mặt trời Aton.) trước đó và Luther (Martin Luther, nhà cải cách tôn giáo cuối thể kỉ 15, đầu thế kỉ 16, người làm thay đổi dòng lịch sử văn minh phương Tây bằng những tư tưởng mới trong tín ngưỡng Công Giáo.) sau này. Khi một cộng đồng giáo sĩ nào đó hoạt động được một thời gian dài, họ sẽ tích cóp được nhiều tiền của và dân chúng lại bắt đầu phẫn uất. Hiện các thầy tu của Rắn Chuông Sao đang rất được lòng những kẻ đã từng bị tước đoạt. Thời gian “im lặng” sẽ bắt đầu sau sáu ngày nữa tính từ ngày hôm nay, tức là năm ngày trước thời điểm nhật thực. Trong suốt thời gian đó, thành phố sẽ tắt hết đèn đuốc, tất cả các đống lửa sẽ bị dập, kể cả những đống lửa lớn trên đỉnh kim tự tháp. Mặc dù cứ đều đặn năm mươi hai năm lại có một lễ “im lặng”, nhưng lễ lần này không nằm trong lịch trình đó, vì thế nó càng đáng sợ hơn. Năm ngày đó sẽ không được bảo trợ bởi bất cứ người khối thiện hay vị tổ tiên nào, chẳng có ai hết vì chúng không phải những ngày có thật và được đặt tên mà chỉ là sự sai sót của vũ trụ mà thôi. Người dân sẽ cảm thấy chìm đắm trong cơn ác mộng của thời gian vô định, phó mặc cho các uay lạnh lùng và xấu xa . Rất nhiều người mong vượt qua thời khắc bằng cách ” đi trên tấm lưng trắng của Rắn Chuông”, tức là cầu xin sự bảo vệ của nó khi tất cả các vị thần khác đã bỏ rơi họ. Nói tóm lại, điều đó sẽ khiến việc diện kiến công nương Koh trở nên khó khăn hơn. Chúng tôi phải lên đường ngay lập tức.

Tuy thế, bất chấp tất cả những chuyện này, 14 chẳng lo lắng chút nào. Thực ra, hắn tỏ vẻ thờ ơ. Chắc đầu óc hắn đã ngấm đầy cái thuyết hoang đường về sự trường tồn vĩnh viễn của Teotihuacán. Dĩ nhiên, đúng là nơi này có ổn định hơn các thành phố Maya thật. Các ahau Maya cứ tuần tự vài năm một lần gây chuyện nhặng xị khiến việc quản lý cứ thay đổi luôn luôn, do hậu quả của thoái vị hay tiếm quyền, hoặc nơi xảy ra chuyến sẽ bị coi là ô uế và bị bỏ hoang. Teotihuacán thì khác. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó sẽ tồn tại mãi mãi .

Bị thương 14 dừng lời. Cá Sấu 12 im lặng. Cả ông ta lẫn Hun Xoc và tôi , không ai nhắc lời nào đến công nương Koh. Chúng tôi cũng ra lệnh cho Bướm Đêm 3 không nói với đoàn hộ tống rằng hắn đi đâu.

Mới đây, 14 nói tiếp, lính của Nhà Báo Sư Tư bắt đầu sách nhiễu những ngưòi cải đạo trên đường từ chợ đến Ciudadela (Một khu vực khép kín của Teotihuacán còn tồn tại đến ngày nay, được coi là nơi thực hiện các nghi lễ tôn giáo) – nơi hội họp của Hội Rắn Chuông – và cách đây hai ngày, một gia đình cải đạo đã bị giết hại. Thân nhân của họ đang đòi Nhà Báo Sư Tử bồi thường và thiên hạ đồn rằng thị tộc Bướm Đuôi Nhạn đã phá bỏ giao kèo của họ với các thần mưa.

Vậy là, với tất cả mọi chuyện đang xảy ra, “nuốt ánh sáng” – tức hiện tượng nhật thực sẽ tới trong mười một ngày nữa- sẽ là thời điểm nhiều rủi ro.

Im lặng. Cá Sấu 12 nhìn Hun Xoc, sau đó nhìn tôi, cái nhìn đáng sợ của người quen chỉ huy, nhưng không nói năng gì. Chúng tôi cũng vậy.

-Ngài , bên cạnh tôi, ngài đã từng dâng lễ cho cha ông chúng ta cùng công nương Koh chưa? – Cá Sấu 12 hỏi. Theo những gì chúng tôi được biết, bà ta không chỉ bị giam giữ tại nơi ở. Cá Sấu 12 muốn chắc chắn rằng bà ta còn sống.

Bị Thương 14 không trả lời thẳng. Thay vào đó, hắn nói hắn và những ngưòi khác của nhà Đại Bàng ở Teotihuacán từng trông thấy bà ta tại các đám rước của Rắn Chuông Sao, bà ta hẳn phải là tay hùng biện có hạng, và gần đây có những tin đồn rằng bà ta đang thu thập nhiều tín đồ của riêng mình trong số hàng trăm người gia nhập Hội Rắn Chuông Sao mỗi ngày.

– Thiên hạ đồn rằng bốn mùa chiến tranh trước, một kẻ đã lên án bà ta trước giáo hội Báo Sư Tử, và đêm hôm đó, một con bọ cạp đã bò vào nhà, cắn cho hắn một phát khiến con ngươi bật ra và hắn thành thằng mù. – Hắn kể rằng bà ta đã tiến đóan trước được trận lụt xảy ra cách đây ba mùa, và rằng bà ta chỉ gặp mặt những người đứng đầu dòng họ quý tộc theo đạo Rắn Chuông và không xem bói cho bẩt cứ ai khác, rằng bà ta có hai người vợ, và rằng bà ta có thể ” đọc được k’atun chưa ra đời”, nghĩa là bà ta có thể nhìn vào tương lai hai mươi năm sau. – Bà ta còn nói chuyện được với nhện, sai khiến chúng dệt những tấm mạng nhiều màu hoặc xe dây thừng nữa.

Tôi nhìn sang Hun Xoc. Nó nhìn xuống – một kiểu nhún vai của người Maya – ý nói “ừ, cũng có thể đấy. Chuyện lạ nhý thế vẫn xảy ra mŕ”.

– Và hai Giáo hội lớn không tin tưởng bà ta, – 14 nói.

Xem ra công nương Koh là người có vị trí cao , tuy chưa phải đứng đầu, một hội hay nói cách khác là một dòng tu gọi là Những Đứa Con Của Nhện Dệt Cầu Vàng. Họ là những người phụ nữ vì lý do tín ngưỡng, có thể ăn vận như nam giới, hành động và phát ngôn như nam giới. Tôi nghĩ chúng ta có thể gọi họ là những người ” bận y phục khác phái”, chỉ có điều cái tên này làm cho người ta tưởng nó chỉ là một hành động. Ái (Nguyên văn: “epicine”, từ dùng để chỉ những người đống tính nam hoặc nữ có xu hướng quá nữ tính) chăng? Không, nghe hơi nữ tính quá. Hừmm. Trong nhiều sách vở người ta vẫn hay dùng từ “đồng tính” (Nguyên văn “berdache”, khái niệm chỉ những người nam giới đóng vai trò của cả hai giới trong những công việc hoặc nghi lễ mà nữ giới không được tham gia, tồn tại ở rất nhiều nền văn hóa bản địa Bắc Mỹ), nhưng từ đó chỉ dành riêng cho nam giới ở các nền văn hóa dành cho người da đỏ Bắc Mỹ. Có lẽ chúng ta nên gọi họ đơn giản là những ngưòi đồng giới . Mặc dù từ đó nghe có tính sinh học quá, nhưng thôi kệ . Nói tóm lại, Koh và tất cả các nữ tư tế khác của dòng Nhện Dệt Cầu Vàng cũng như các thầy tế nam giới của Rắn Chuông đã bị giữ làm con tin suốt hai tunvừa qua. 14 không dùng cách diễn đạt này, nhưng tôi có cảm tưởng rằng họ bị lính nhà Báo Sư Tử giam giữ tại nhà.

Có tiếng huýt sáo của một người đưa tin. Cá Sấu 12 huýt sáo đáp lại, nghĩa là “ngươi được phép vào”. Hắn khom ngưòi bước tới và thì thầm với Cá Sấu 12. Cá Sấu 12 ra hiệu cáo lỗi và đi ra ngoài. Tôi đi theo ông ta vào một hành lang nhỏ. Ông ta quay lại và nói nhỏ với tổi rằng Bướm Đêm 3 vừa về, hắn nói: “cây gậy tuyết tùng đã gẫy”, nghĩa là công nương Koh sẽ không gặp chúng tôi.

48

Cá sấu 12, Hun Xoc và tôi gọi Bướm Đêm 3 đến, đưa hắn và vệ sĩ của hắn tới phòng kho, chính căn phòng có những hũ muối lần trước, để nghe đầu đuôi câu chuyện. Với mọi nỗi khó nhọc của việc đi lại trong thành phố, chắc hắn đã phải chạy ba dặm đi và ba dặm về, bây giờ còn ướt đầm mồ hôi và cố lắm mới không thở hổn hển, Ánh nắng chiếu xiên qua ô cửa trên trần với một góc rất hẹp. Khoảng bốn giờ chiều. Khá muộn rồi. Bướm Đêm 3 nói hắn chắc chắn rằng công nương Koh đã nhận tận tay bức thư. Bà ta đã gửi trả lại số lông chim cùng một món quà trị giá gần tương đương để chúng tôi không cảm thấy bị xúc phạm. Những người gác cửa của bà ta trả lời rằng tất cả những đứa con của Nhện Dệt Cầu Vàng “đều đang bận nuôi Người Nuốt ánh Sáng”, tức là họ đang nhịn ăn trước ngày nhật thực.

Cá Sấu 12 thường tự ra mệnh lệnh, nhưng lần này, ông ta hỏi tôi xem tôi muốn làm thế nào.

Tôi đáp rằng chúng tôi sẽ vẫn đến đó.

– Chúng ta sẽ gửi một món quà cảnh báo có giá trị tương đương, – tôi nói,- tương đương, hoặc lớn hơn.

Chúng tôi sẽ phải lên đường gấp. Tôi phái Hun Xoc đi lấy một vài thứ trong gói đồ quý nhất.

– Ở đó đông lắm, – Bướm Đêm 3 thông báo. Hắn bảo chúng tôi rằng nếu muốn đến đó, chúng tôi nên đi theo hướng nam, bám càng sát trục đường chính càng tốt. Họ đang dẹp bọn tiện dân ra khỏi khu teocalli cho nên ở đó vắng vẻ hơn. Nhưng hình như những người thuộc giới quý tộc được phép ở đó, chí ít cho tới khi mặt trời lặn. Cá Sấu 12 khen hắn làm rất tốt. Hun Xoc quay lại với một ôm đầy quà cáp.

Tôi chọn lấy hai món. Món thứ nhất là một chiếc mũ lông vẹt đuôi dài màu xanh lá cây. Nó trị giá gần hai trăm mười tên nô lệ trẻ, tức là bằng cả số tiền tiêu cho phần còn lại của cuộc hành trình này. Chậc, nếu Sọ Đá Quý 2 có mang công mắc nợ vì nó thì đấy cũng chỉ là rắc rối nhỏ nhất của ông ta. Chúng tôi sẽ biếu nó cho Hội đồng Rắn Chuông Sao chứ không phải công nương Koh, họ sẽ phải nhận và đốt nó trên ban thờ. Điều đó sẽ buộc bà ta phải đích thân cảm ơn chúng tôi. Món thứ hai là một chiếc bình nhỏ màu trắng đựng đầy một thứ nhìn như những chiếc lá khô nhỏ xíu, chỉ bằng con tem Jefferson năm xu số bảy mươi sáu. Chúng rất cân đối với đường viền hình răng cưa, màu hồng tươi điểm những vệt đen lộn xộn như mặt nạ của Rorschach (nhân vật chính trong loạt truyện Watchmen, luôn đeo tấm mặt nạ trắng với những vết đen loang lổ). Đó là da sấy khô của một giống ếch phi tiêu đỏ có độc trong rừng sương mù ở Ix. Chúng báo hiệu sự nguy hiểm, cụ thể là thông điệp cảnh báo: “hãy cẩn thận, chuẩn bị sẵn phi tiêu đi”.

Tôi hỏi Cá Sấu 12 rằng liệu những miếng da này có thể hiện sự thù địch không. Ông đáp rằng không. Những món quà này đều có ý nghĩa tương đối nhất định, và một chiến binh già như ông ta thì chưa có món nào là chưa từng thấy. Chúng tôi đậy cái bình lại. Nó là một chiếc bình mới với hình chạm khắc nhìn nghiêng của hai vị tổ tiên chung của Sọ Đá Quý 2 và Koh, với ẩn ý rằng chúng tôi đang nhắc nhở Koh về nghĩa vụ của bà ta đối với dòng tộc.

– Tôi muốn thêm vào một đoạn cuối, – tôi nói.

Cá Sấu 12 nhìn tôi. Tôi giải thích rằng tình thế này đủ nghiêm trọng để chúng tôi tiết lộ một chút bí mật.

Tôi đọc:

“4 Ahau: ajitonxa pochtal Tamoan …

Vào b’ak’tun thứ mười, k’atun thứ tư, tun thứ mười sáu, unial thứ không [tức tháng 8 năm 530 Công nguyên], Lươn Trắng [tức sao chổi Halley] cháy trên đầu chúng ta.

B’ak’tun thứ mười, k’atun thứ tám, tun mười ba, unial mười một [tức tháng 2 năm 674 Công nguyên], Lươn Trắng lại cháy trên đầu chúng ta.

B’ak’tun thứ mười, k’atun thứ mười hai, tun mười một, unial thứ ba [tức tháng 4 năm 684 Công nguyên], Lươn Trắng lại cháy trên đầu chúng ta.

Trước unial thứ mười bốn của tun thứ mười chín, k’atun mười hai, b’ak’tun thứ mười [tức một thời điểm nào đó trước tháng 1 năm 692 Công nguyên]. Teotihucán sụp đổ, hoang phế.

Hết.

Những ngày tháng trên đều không được nhắc đến trong cuốn Thư tịch Nurnberg hay trong bất cứ bản ghi chép cờ hiến tế nào khác mà tôi biết qua Sọ Đá Quý 2, nhưng chúng đều là những sự kiện xảy ra thật. Sọ Đá Quý 2 cũng đã cho tôi biết rằng ở đây mọi người đều biết sao chổi Harley, hiển nhiên thôi, nhưng chưa ai đoán được chính xác những lần xuất hiện của nó, kể cả dùng cờ Hiến tế hay bất cứ cách nào khác. Tôi nói với ông ta rằng điều đó cũng chẳng có gì là lạ vì chu kỳ xuất hiện của nó rất không đều. Thậm chí phải dùng đến nhiều thiết bị hiện đại mới có thể dự báo được trước hai năm, và chỉ đến những năm 1960 người ta mới bắt đầu nắm bắt được nó. Koh hẳn sẽ rất tò mò. Phải vậy không?

Tôi bắt Bướm Đêm nhắc lại. Hắn đọc chính xác ngay từ lần đầu. Chúng tôi sai hắn đi.

– Chúng ta sẽ không chờ hồi âm, – tôi đáp, – tôi sẽ cho bà ta bốn ngàn nhịp (một cách nói ám chỉ khoảng một giờ đồng hồ) và sau đó chúng ta sẽ đứng ngay trước cửa.

Cá Sấu 12 có vẻ hơi ngờ vực điều này, nhưng đó là việc riêng của tôi nên ông ta không nói gì.

Hun Xoc, Ngọc Giá Trái – con trai 14 – và tôi đi qua một lối sân trống. Các vị khách khứa của gia đình 14 đã thu dọn chỗ nằm nghỉ trên mái nhà, chúng tôi bước qua người họ, leo xuống một con hẻm nhỏ ở phía bắc và nhằm thẳng hướng đông tới trục đường chính.

– Chúng ta nên im lặng, – Hun Xoc nói. Nó không muốn bất cứ ai nghe thấy chúng tôi nói tiếng Ix. Tôi nhất quyết đòi đeo mặt nạ thay vì khuyên mũi, cái thứ khiến tôi phát rồ lên – không có gì tệ hại bằng những cơn đau nhói. Chúng tôi khoác lên người những tấm áo choàng theo kiểu địa phương với họa tiết hình bọ cạp đỏ và xám có đính hạt, điều đó có nghĩa là chúng tôi dẹp nghĩa vụ đối với thị tộc sang một bên và chỉ đơn giản đi cúng cầu mưa cho cả thành phố. Như vậy, không ai có thể nhận ra chúng tôi thuộc gia tộc nào. Thế nhưng, chúng tôi vẫn chưa bắt chước được đúng điệu bộ của người Teotihuacán. Việc này có thể dẫn đến rắc rối không nhỏ nếu chúng tôi bị bắt giữ. Tôi nhìn quanh. Có vẻ như chúng tôi đã qua mặt được bọn do thám, nếu có thể gọi là do thám, vì chúng chẳng hề kín đáo chút nào. Tôi nghĩ cảnh này cũng giống ở nước Nga Xô-viết cũ vào những thập kỷ cuối cùng, khi ai cũng biết mặt tất cả, hoặc phần lớn, những kẻ theo dõi. Có lẽ chúng bị quá tải vì những đám đông không ngừng đổ về thành phố. Sự lộn xộn sẽ có lợi cho chúng tôi. Nhưng dù sao chúng tôi cũng có làm chuyện gì phản loạn đâu, phải vậy không? Ý tôi là chưa thôi.

Chúng tôi rẽ phải, vào một ngõ hẹp tối âm âm như những lối đi dạo giữa hai hàng cây ở Trung Đông. Nó rộng chừng năm sải tay và gần như song song với trục đường chính, cách một khu nhà, vì vậy, về mặt không gian, chúng tôi như đang đi trên đại lộ Madison (Madison: một đại lộ ở thành phố New York, Mỹ)(chỉ có điều hẹp hơn rất nhiều) và cứ đến mỗi ngã rẽ lại nhìn thấy công viên Trung tâm. Chúng tôi đang đi theo đường khác với đường Bướm Đêm đã đi. Lúc này chắc hắn cũng vừa đến nơi. Cứ cho bà ta chút thời gian nghe hắn trình bày đã. Nghe và khóc thét lên. Tôi nhìn thấy một con rắn nước lớn đang phơi nắng trên một bờ tường thấp. Dân tình ở đây khá kỹ tính về việc không làm phiền những con rắn có vảy, cũng như ở Ấn Độ người ta không làm phiền khỉ nuôi trong đền hay những con quạ thiêng. Có cái lợi là ít chuột bọ và lắm người chết vì rắn cắn, điều thứ hai được coi là có lợi vì người ta thổi phồng lên rằng như vậy là Rắn Chuông Sao đã gửi một đứa con của ngài đến để đưa uay của anh lên tầng trời thứ mười ba.

Đi thêm hai “tòa nhà” về hướng nam, chúng tôi đã vượt qua một đường ranh giới vô hình để vào khu người Teotihucán bản xứ. Khu bắc – tây bắc mà chúng tôi vừa rời khỏi là nơi đặt những trú quân giàu có nhất của người Maya, nhưng những ngôi nhà vẫn nhỏ hơn, cũ kỹ hơn và có cái không khí đặc trưng Maya. Theo tôi nó giống khu vực giành cho cộng đồng chiếm thiểu số mà bất cứ thành phố nào cũng có. Ta hãy tiếp tục so sánh với thành phố New York, nó giống như đi dọc phố Mulberry và qua khu ranh giới với khu Trung – Ý bên bờ kênh. Một tốp ba gã Quá-Cao bộ dạng lồng ngồng; từ trong một đường ngách có mái che ló đầu ra, chúng đang bước vào nơi không được phép. Hun Xoc vội lao vào chắn giữa chúng và tôi. Tôi nhìn nó qua tấm mặt nạ, tỏ ý cảm ơn.

Không có gì, – ánh mắt Hun Xoc trả lời.

Cậu biết đấy, – tôi tiếp tục ra hiệu, – tôi không tin gã Ngọc Giá Trái này.

Đừng lo, – Hun Xoc đáp, – chúng ta sẽ không cho hắn biết điều gì hết. Và tôi sẽ canh chừng hắn như thằng trộm.

Đến quãng này, nhà cửa mỗi lúc một mới và to hơn. Tối thiểu là hai tầng, phần dưới xây bằng đá trát thạch cao, phần trên là gỗ ván, cũng trát thạch cao. Các thương lái và người hành hương, luôn đi thành từng tốp ba người hoặc hơn, ngang qua chúng tôi, ra dấu chào hỏi lặng lẽ. Tất cả đều có bộ dạng len lén như thể ai cũng có một cuộc hẹn kín như chúng tôi. Chúng tôi đi qua một toán phuhót phân, họ cúi gập mình kính cẩn quanh chúng tôi, trên lưng là những cái vại lớn bốc mùi kinh tởm. Từng tốp năm tên lính của nhà Báo Sư Tử đi nghênh ngang giữa đường giữa lối. Chắc chúng muốn bắt bớ hoặc thậm chí xô vào nhà người ta để tịch thu bất cứ thứ đồ đạc nào có thể coi là phô trương.

Thành phố này có cái không khí im ắng kỳ lạ. Ở các thành phố Maya, luôn có tiếng người hát hò, còn ở đây, tôi đoán các bài hát chỉ được cất lên vào những dịp nhất định. Vì thế, anh có thể nghe thấy cả tiếng bước chân nện xuống, tiếng chim chóc, đôi khi cả tiếng đá lửa cành cạch và tiếng rền rĩ của cưa đá xẻ vào gỗ, nhưng ngoài ra chẳng còn mấy tiếng động gì khác; những bức tường đá dày tạo thành tiếng dội khiến mọi tiếng động hòa vào nhau thành một thứ âm thanh nghe lóc bóc như có nước. Xem ra đến một nửa số người đi trên đường đều đeo khuyên mũi, nửa còn lại, có lẽ thuộc tuýp truyền thống hơn, thì đeo mặt nạ hoặc che mạng. Như nhau cả, – tôi nghĩ bụng. Tôi bắt đầu thấy có cảm giác mệt mỏi vì phải nhìn quá nhiều bộ mặt. Chúng dần trở nên giống hệt như nhau và chẳng còn gì là thú vị nữa. Mặt nạ nào cũng như mặt nạ nào, làm từ thạch cao hoặc một loại bột giấy bằng ngô nào đó của địa phương, trơn chuội, dửng dưng, trắng đục, điểm cặp mắt hình hạnh nhân, với tất cả sự vô hồn của một khuôn mặt không biểu lộ tình cảm, không tuổi tác, không giới tính, không sắc tộc, không sống cũng không chết. Cho nên, với tất cả những tấm mặt nạ, áo choàng dài, sự yên ắng và không cây không cỏ này, thứ tự nhiên duy nhất mà anh có thể nhìn thấy từ mặt đường là bầu trời đang đổi màu trên đầu anh và thi thoảng một chiếc cầu nhỏ bắc qua con rạch.

Khi đến mé nam kim tự tháp Bão Lốc, chúng tôi rẽ trái, hướng về trục đường chính. Năm tên lính nhà Báo Sư Tử thảnh thơi đứng gác, Ngọc Giá Trái trao đổi với chúng bằng tiếng Teotihuacán đều đều không ngữ điệu. Chúng nhận ra hắn và để chúng tôi đi qua.

Đám đàn bà con gái đi đâu hết nhỉ? – tôi thắc mắc. Dĩ nhiên, đây là khu vực hành lễ nên nó bị cách ly. Nhưng ngay cả trên các con phố nhỏ bên cạnh cũng khó lòng thấy bóng dáng phụ nữ, cả con nít cũng không nhiều. Hệt như một thành phố đạo hồi, nơi phụ nữ quý tộc được coi là quá cao quý để được ra khỏi nhà. Hoặc ít ra cũng là cách họ tự giải thích về sự tù túng của mình. Cái thành phố này làm mình phát khó chịu, – tôi nghĩ bụng, – không, không đời nào mình muốn sống ở đây.

Nơi này đồ sộ thật, nhưng vẫn không giống cái mà người ở thế kỷ 21 coi là thành phố. Nó giống nhiều ngôi làng tập hợp lại hơn. Anh có thể sống ở đây cả đời mà chẳng bao giờ bước chân sang khu nằm sát bên cạnh. Mà nếu anh làm thế thì chẳng khác nào tự tiện bước vào phòng khách của một ngôi nhà không quen biết. Và nếu anh cứ nhất quyết làm thế, anh sẽ phải bỏ ra ít thì giờ để chuyện trò với bất cứ người nào mà anh tình cờ gặp đầu tiên, rằng anh là họ hàng nhà ai, nghe xem họ hàng nhà anh ta là ai, và nếu các anh không thể moi ra được một người họ hàng chung nào thì anh ta sẽ tẩn cho anh một trận. Mà thực ra người ta cũng chẳng có lý do gì để ra khỏi khu vực sinh sống của mình. Làm gì có nhà hàng ăn – khái niệm này còn chưa xuất hiện – cũng không có cửa hàng mà chỉ có những bãi chợ. Không rạp hát, trừ khi anh tính những buổi trình diễn có tính chất tôn giáo trên một vài quảng trường mà chỉ những người quen biết mới được vào xem. Không có bất cứ trò giải trí nào, trừ khi anh tính việc đến nhà họ hàng chơi và nghe hát hỏng trong sân nhà anh ta, ừ, cái đó tính thì cũng được thôi. Nhưng chắc các bạn cũng hiểu ý tôi muốn nói gì rồi. Họ chẳng có chuyện đi ra ngoài đơn giản chỉ để xem một buổi trình diễn. Nói đúng ra, họ chẳng bao giờ đi ra ngoài. Họ không ra ngoài đi dạo. Họ không đi ra ngoại ô hít thở khí trời trong lành vào dịp cuối tuần. Họ không đưa trẻ con đến trường. Mà cũng chẳng phải vì họ bận lao động cả ngày. Tôi thấy họ toàn lo những chuyện nghĩa vụ với gia đình, với dòng tộc, với thị tộc, với một nửa xã hội mà họ thuộc về, với hàng đống các vị thần bảo trợ, với người sống, với người chưa được sinh ra và đặc biệt là với những người đã chết. Họ làm những việc mà chúng ta, tức là người ở thế kỷ 21 chúng ta, gọi là lễ lạt. Thế nhưng, đối với họ, đấy lại là những việc có ý nghĩa thực tế. Vấn đề nằm ở chỗ thành phố này chẳng có chút không khí giải trí vui vẻ nào, nó nghiêm cẩn và sùng tín hệt như Jerusalem. Cũng có thể đó chỉ là không khí mộ đạo được lan truyền khắp nơi bởi những người hành hương. Và cũng như Jerusalem, nó quá đỗi đông đúc và cáu bẳn. Anh có thể khẳng định rằng ở đây có nhiều hệ thống tín ngưỡng xung khắc nhau.Và anh gần như có thể cảm nhận được – nếu không sợ mình đang suy diễn – rằng cũng như những thành phố khổng lồ khác, thành phố này đơn giản là đã tồn tại quá lâu và đang thối rữa ra từ bên trong. Tôi ở Ix chưa được bao lâu, vậy mà cũng cảm thấy nhớ nó. Mặc dù rất tôn ti trật tự nhưng các thành phố Maya luôn có không khí hội hè và đến chỗ nào anh cũng có thể nghe tiếng ai đó đang cười. Còn cái chỗ này thật khắc khổ, bất chấp đủ thứ chim chóc, hoa hoét và kim tự tháp.

Chúng tôi chen lấn ra được đến giữa quảng trường.Trong một giây, tôi thoáng cảm thấy một trường lực phát ra từ kim tự tháo Phù Thủy xuyên qua mình, tôi đứng sững lại như bị chóng mặt. Hun Xoc khẽ đập vào người tôi và tôi theo thằng bé đi về hướng nam. Đám đông dày đặc nhưng không tắc lại một chỗ. Đường có bậc thang như thường lệ. Chúng làm tôi không hết hơi nữa – tôi đã qua giai đoạn ấy rồi – nhưng cứ leo lên leo xuống mãi cũng gây mụ mẫm đầu óc. Những dải màu tối và sáng trên các bức tường và vỉa hè tạo ra một thứ ảo giác như nghệ thuật ảo thị, vì thế, anh chẳng còn phân biệt được chỗ nào cao, chỗ nào thấp, các bức tường gần hay xa hay bậc tiếp theo ở chỗ nào. Giống như nếu anh sơn những đường ngang lên cầu thang, người đi xuống sẽ bước hụt và lộn cổ. Marena chắc sẽ thích lắm đây, – tôi nghĩ, – phải kể cho cô ta biết mới được.

Coi chừng nhé, – Hun Xoc ra hiệu cho tôi. Tôi sải bước gấp gáp lộ liễu, phía trước lại có lính của nhà Báo Sư Tử đi tới và nó muốn tránh xa chúng. Chúng tôi rẽ sang tay trái, vào một cái chợ trời bán đồ thờ – tôi nghĩ dùng từ này là chính xác bởi nó được dựng lên để mua bán các loại tượng thờ, thuốc thang, nô lệ, dao, bùa ngải, đại loại là những thứ mà hồn vía có ít nhiều quyền năng. Nhưng chúng tôi chẳng có thời gian đâu mà sắm sửa. Chúng tôi rẽ trái, thẳng hướng Ciudadela, sân đền của Rắn Chuông.

Nó vừa uy nghi lại vừa cởi mở, lớn hơn và hoàn thiện hơn bất cứ quảng trường nào khác, được tôn nền cao hơn mặt bằng chung của thành phố, với mười hai bục lớn và ba phía đều có những cầu thang rộng cao ba mươi mốt bậc. Chả thế mà người Tây Ban Nha tưởng nó là một pháo đài. Ở góc phía đông, một phần ba đỉnh trên của kim tự tháp Rắn Chuông nhô lên sau một bức tường cao chướng mắt. Hình như hai Giáo hội lớn đã đe dọa tăng sưu thuế đối với Rắn Chuông Sao nếu họ không xây cái chướng ngại vật ấy. Chắc họ nghĩ nếu làm nó bớt đường bệ đi thì sẽ ít người cải sang đạo này hơn. Thế nhưng tác dụng nếu có thì chỉ là ngược lại. Nó đông nghìn nghịt và hiển nhiên là đền thờ được nhiều người lui tới nhất thành phố. Chúng tôi len qua, đổi hướng nam sang đông nam, đến một nơi mà người ta chỉ thấy những mái nhà lỗ chỗ châu mai của kho chứa đồ thờ ở góc nam kim tượng tháp. Một trong số đó là nơi ở của Nhện Dệt Cầu Vàng. Đám đông đầu tiên chúng tôi đi ngang qua lại là một toán hai mươi tên lính của nhà Báo Sư Tử. Xem ra chúng đứng đông hơn ở khu vực này để canh chừng các Rắn Chuông. Tiếp đến là là một lô các bà già. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy phụ nữ ngoài đường mà không có đàn ông bên cạnh. Không như các quảng trường ở phía bắc, sân đền này có cái không khí hỗn tạp, tức là có rất nhiều kẻ rách rưới. Bị Thương 14 nói rằng những đứa con của Lươn Giời quản lý mọi công việc cứu tế lẫn xét xử ở đây, song nó vẫn giống một quảng trường công cộng hơn một không gian tôn giáo. Không có quầy hàng, cũng không ai trao tay nhau hàng họ gì, nhưng chẳng cần bảo ai, tôi cũng biết đang diễn ra rất nhiều vụ làm ăn buôn bán: bọn cò mồi đổi chác đang thỏa thuận với nhau, những tay kế toán với bàn tính trong tay kiểm tra lại các phép cộng, một gã đặt cá cược thuê đang đặt cược. Các thành phố thời xưa luôn tận dụng không gian công cộng. Để buôn bán mà không có tiền hay điện thoại thì anh nhất định cần đến một nơi tụ tập, cần đến quảng trường và bãi chợ. Chúng tôi đi ngang qua một đám thanh niên chơi taxac, một trò chơi đọc miệng phức tạp, và kak, một trò chơi bằng tay. Tôi nhận ra vỉa hè dưới chân mình đã chuyển sang màu đen, và khi chúng tôi đi ngang qua bàn thờ lớn ở chính giữa, nó lại chuyển thành màu vàng, rồi đỏ. Nó được sắp đặt theo hình bàn cờ Hiến tế với màu sắc rất tươi sáng, một loại thuốc nhuộm nào đó – tôi đoán thế – được tưới lên nền đá vôi. Chúng tôi gặp hai thầy bói Rắn Chuông đội mũ màu xanh da trời đang lượn quanh đám đông và trả lời các câu hỏi. Tinh thần truyền giáo đây mà, – tôi nghĩ. Chúng tôi đi vòng qua những tốp người quỳ dưới các chảo lửa, dâng cúng cho Rắn Chuông, hoặc qua Rắn Chuông gửi đến cho những người thân đã khuất, các vị tổ tiên còn hoặc không còn tên tuổi. Tôi thấy đa phần những người từ nơi khác đến đều có vẻ là trưởng làng. Mỗi người thay mặt cho một vài trăm nông dân ở những đâu thì có trời mà biết. Ngọc Giá Trái nói trận hạn hán vừa rồi đã đưa người lên với Lươn Giời, tức Rắn Chuông Sao, nhiều chưa từng thấy. Hắn nói thêm rằng hai giáo hội Kền Kền và Bướm Đuôi Nhạn đều có những người đếm mặt trời riêng, nhưng người của Hội Rắn Chuông Sao vẫn được coi là giỏi nhất. 14 từng giải thích nguyên do là vì họ biết viết và đã tích lũy được cả một thư viện lưu giữ những ngón nghề tinh túy nhất, nó quá đồ sộ để một người, thậm chí một nhóm người có thể ghi nhớ hết. Một vài trong số họ là người Maya di cư đến, giống như công nương Koh, vì vậy, họ đã duy trì tốt cái ốc đảo cô lập của sự biết đọc biết viết này. Nghe đâu chính nhờ cách dùng nhiều thứ tiếng trong các buổi lễ của mình, Koh đã thu hút được những người từ xa đến như tộc người Quá-Cao chẳng hạn. Rắn Chuông không kỹ tính, Ngọc Giá Trái nói, và họ không đòi hỏi lễ vật sang trọng, chỉ cần bạc hà, khói thuốc lá, âm nhạc và một vài lọn tóc của anh là đủ.

Tiếng trống nổi lên. Đám đông di chuyển chậm dần rồi dừng lại.

Tiếng vọng của những hồi trống dội lại từ khắp nơi trong thành phố, và anh có thể nghe thấy nó lan tiếp vào tận trong núi và xa hơn nữa. Nhịp trống này chúng tôi chưa từng được nghe, nó vang lên năm hồi một, báo hiệu điềm xấu sắp tới.

– Họ nói đường vào thành phố đang được đóng lại, – Ngọc Giá Trái thông báo, – sớm hai ngày.

Vậy là thành phố đã bị phong tỏa cho lễ vọng, chẳng ai ra vào nữa.

Mẹ kiếp, – tôi rủa thầm. Tôi nhìn sang Hun Xoc. Thôi, chúng ta kẹt lại đây rồi, – ánh mắt nó trả lời, – phải cố làm cho thật tốt thôi.

Tiếng trống dứt, đám đông quay lại việc mình, càng vội vã và lặng lẽ tợn. Đồ phải gió, – tôi nghĩ bụng. Tôi đã nghĩ đến chuyện thó ở đâu đó vài “bi” thứ thuốc kia và biến luôn khỏi cái thành phố chán ứ này trước lúc lễ vọng. Bây giờ thì thôi rồi.

Chúng tôi len lỏi xuống các bậc cầu thang chật cứng. Lính gác nhà Báo Sư Tử nhìn chằm chằm vào chúng tôi từ cả hai phía nên tôi cứ phải cúi gằm mặt xuống và chỉ dám liếc nhanh một cái lên kim tự tháp Rắn Chuông. Nó được xây dựng sao cho nhìn như đan từ thân của hai loài rắn khổng lồ, hay đúng hơn, từ hai diện mạo khác nhau của Rắn Chuông: đó là Rắn Biển với hình dáng uốn lượn và tự nhiên hơn, và Lươn Giời, được cách điệu và góc cạnh hơn, với cặp mắt xanh giương tròn của thần mưa Chaak và những chiếc nanh to đều nhau. Hội nữ tư tế của Koh sống tại một trong hai khu nhà ở góc nam sân đền, khu còn lại dành cho các thầy tế nam giới. Nếu chỉ nhìn bề ngoài thì không thể phân biệt được khu nào dành cho ai. Chúng đều được xây theo kiểu cổ, bằng gỗ, trát thạch cao phẳng mịn, gần như không có cửa sổ, chỉ thi thoảng có những kẽ hở; mặt tiền được sơn xanh nước biển thay vì màu da cam phổ biến ở nửa này của thành phố. Các cánh cửa ra vào nhỏ xíu, chạm khắc những hình thù khuôn mặt ghê sợ, nhưng vẫn không lộ vẻ phô trương. Hầu hết cửa chính đều có một hai người ngồi gác. Họ thường xuyên ngồi đấy hay mới từ khi mọi chuyện tồi tệ đi? Các bầu đoàn ăn mày, người Teotihuacán, người Quá-Cao và đủ hạng người khác bu chật ních con hẻm. Họ không có chăn chiếu, cũng chẳng có đống lửa nào. Họ cứ ngồi đấy, hoặc túm tụm lại với nhau, run rẩy. Chả trách Koh không muốn gặp chúng tôi. Bà ta xua đi còn chẳng hết.

Chúng tôi bước qua họ, vài lần dẫm cả lên. Một vài người cũng có kêu ca một tý, nhưng đẳng cấp xã hội cho phép chúng tôi bình yên vô sự, dù có làm gì họ đi chăng nữa. Chúng tôi là quý tộc, còn họ chẳng đáng một xu. Ngọc Giá Trái dẫn chúng tôi đến một trong hai tòa nhà, nhưng không qua cửa, mà chỉ đến cạnh cửa. Ở đây người ta không gõ cửa. Như thế thô bạo quá. Anh chỉ được huýt sáo khẽ hết mức có thể hoặc cứ đứng đây chờ cho đến khi có người đi ra. Nhưng có ba tên dvornik (người gác cửa nhà riêng- tiếng Nga) đang ngồi chồm chỗm ngay trước lối vào sân, chơi patolli (một trong những trò chơi cổ xưa nhất của người châu Mỹ bản xứ, phổ biến khắp vùng Mesoamerica) theo lối bài bạc trên một bàn cờ bằng vải hoen ố. Cả ba đứng dậy. Chúng tôi tự giới thiệu. Chúng không muốn vào trong và bảo chúng tôi rằng không ích gì đâu, nhưng Ngọc Giá Trái hình như đã ban cho chúng ít ân huệ gì đó khi đến đây lần trước, vì thế, hắn lôi được chúng vào cuộc tranh luận rằng dù quan hệ họ hàng của Koh với chúng tôi cách đến năm phát đại bác, nhưng điều đó không có nghĩa là bà ta muốn người ta xì xào rằng bà ta “đốt bệ lò sưởi”, tức là vi phạm các quy tắc hiếu khách. Đúng không nào?

Chúng bảo tôi đứng đợi. Một tên đi vào. Tôi có cảm giác hệt như hồi cuối năm 1989, khi bọn tôi nài nỉ Armando, lão gác cửa câu lạc bộ Nell’s (một câu lạc bộ đêm nổi tiếng ở Manhattan).

Chúng tôi đứng chờ. Thật chẳng ra đâu vào đâu cả, – tôi nghĩ. Biết đâu Koh cũng chỉ là một kẻ tay mơ. Đôi khi chính tôi cũng nghi hoặc điều này, nghĩa là tôi băn khoăn với một câu hỏi hết sức hiển nhiên rằng: Sao có thể có chuyện cờ Hiến tế đầy quyền năng đến vậy mà những người đếm mặt trời không thống trị được cả thế giới?

Dĩ nhiên, có một câu trả lời là họ thống trị thế giới của họ. Họ thực sự cai trị cả vùng này và tất cả các vùng còn lại của Mesoamerica, tuy vẫn để các thị tộc hậu duệ mèo nắm quyền lực chính trị. Tôi nghĩ điều mà tôi thực sự phân vân là vì sao trò chơi này chưa và cũng sẽ không du nhập sang nơi gọi là Cựu Thế Giới.

Fernand Braudel (nhà sử học người Pháp đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu thời kỳ hậu chiến tranh ) từng yêu cầu các sinh viên của mình lý giải vì sao Trung Hoa thế kỷ mười bốn, với lực lượng hải quân hùng hậu, với tiền giấy và mọi bước phát triển vượt bậc, lại không phải là nước tìm ra châu Mỹ. Câu trả lời hay nhất của chính ông ta là họ chẳng cần đến nó làm gì. Tất cả các vị hoàng đế Trung Hoa đều cai trị tốt đất nước của mình và việc duy nhất họ cần làm là củng cố nó thêm vững chắc. Vì vậy, có thể những người đếm mặt trời chẳng cần thống trị bất cứ nơi nào khác. Tính ì của con người ta lớn lắm. Nó có thể mạnh hơn cả sự đổi mới, hơn cả tham vọng, hơn bất cứ thứ gì khác. Nếu mọi chuyện đang tốt đẹp, thì sao phải thay đổi? Những phát minh hay không phải lúc nào cũng được phổ biến. Đôi khi chúng bị quên lãng bất kể hay ho đến đâu, hoặc có khi chính vì quá hay ho. Máy vi sai của Babbage phải một trăm năm sau mới được chế tạo. Người Polynesia ban đầu chả biết cách làm đồ gốm đấy thôi, nhưng rồi lại quên mất. Người La Mã cũng có bê tông, và sau khi họ đánh mất công thức chế tạo thì chẳng ai tìm ra nữa cho đến tận năm 1824.

Tôi nhìn quanh. Tôi bắt đầu thấy hơi lạnh. Nó gợi tôi nhớ đến lần đầu tiên đến Mexico City. Tôi thấy lạ sao ở đây có thể lạnh đến thế. Tôi ngửi thấy mùi trầm hơi đăng đắng. Một gia đình Quá-Cao vừa len từ bên kia đường sang, đứng im, mặt cúi gằm xuống đất.

Có cái gì đó không ổn. Cái gì nhỉ?

49

Hừm.

Người Teotihuacán không phải là những người thích ồn ào, nhưng anh vẫn luôn cảm thấy họ vây quanh mình đông tới hàng nghìn tỉ. Suốt cả ngày chúng tôi nghe thấy nào tiếng người, nào tiếng búa, nào tiếng nạo, nào tiếng lách tách của bánh bột ngô và đá lửa, nào tiếng vo vo từ tổ ong. Vậy mà bây giờ, dường như tất cả đã biến mất. Tất cả các giọng nói đều im bặt.

Thành phố này không có các buổi lễ lúc chạng vạng như ở các thành phố Maya chúng tôi. Chỉ có một sự im lặng thấp thỏm. Ở đây, ngay cả trong những câu chuyện thường nhật họ cũng tránh nhắc đến từ “lúc mặt trời lặn”. Người ta chỉ nói “lát nữa” hoặc “đầu giờ tối nay”. Tôi nhìn Hun Xoc. Nó thở mạnh ra một hơi, nghĩa là một cái nhướng mắt theo kiểu người Maya. Đám người xung quanh ngước lên nhìn nó, ý nhắc: “Suỵt! Khẽ chứ!”.

Tôi lắng nghe. Vẫn còn một biển tiếng ồn ào ngoài kia, tiếng mòng biển the thé, tiếng chó ủng oẳng, tiếng gà tây oọc oọc và tiếng rít siêu âm ken két của lũ dơi, nhưng thế giới loài người thì nín thở.

Mẹ kiếp, – tôi nghĩ, – bắt đầu hơi căng thẳng đây. Tôi liếc sang lũ ăn mày. Chúng đang nhìn trân trân xuống đất, xuống manh áo choàng, xuống bất cứ đâu, trừ ngước lên trời. Mụ đàn bà ngồi cạnh chân phải tôi run bắn lên và tôi không nghĩ là vì lạnh hay ốm đau gì, mà vì sợ. Sau tám trăm năm, thành phố này vẫn còn sợ bóng tối.

Cuối cùng, như mặt trời ló dạng, người của Koh đến và dẫn chúng tôi qua một khoảnh sân trong trống trải vào một nhà tắm hơi. Chúng tôi cởi bỏ quần áo, xoa lại dầu, quấn vào người bộ trang phục mới: một cái khố váy bằng vải bông màu xanh tím với thắt lưng và một cái áo choàng trùm ngoài. Xanh tím là màu trung tính, không phải trung tính trong sắc độ, mà là nó không phải màu sắc riêng của bất cứ thị tộc nào. Mấy tên lính gác đưa chúng tôi đi tiếp qua không biết bao nhiêu hành lang tối tăm, rối như mớ bòng bong, có lẽ chỉ để làm chúng tôi mất phương hướng, qua một cái sân hẹp nữa, vào một căn phòng nhỏ vuông vắn. Bảy người ngồi trên ghế dài, trong bóng tối lờ nhờ, ngước lên nhìn chúng tôi như thể chúng tôi làm ngắt quãng việc gì đấy, mà tôi nghĩ đúng thế thật. Năm người trong số đó ăn vận như đàn ông và khoác áo chàng màu xanh nước biển dệt họa tiết như hình kim cương. Họ đội những chiếc mũ nhìn như những khăn xếp to tướng, sụp xuống che gần hết khuôn mặt. Tuy thế, chỉ cần nhìn vào các lỗ xỏ khuyên, tôi cũng biết đa số họ là người gốc Teotihuacán, có lẽ là người thuộc giới quí tộc cải đạo. Một người to bè, chắc nịch, với cái mũi gẫy, những hạt đính màu đen và da cam trên áo choàng cho biết đó chính là ông lớn mà Bị Thương 14 đã nói trước là có thể xuất hiện ở đây. Thằn Lằn 1, tộc trưởng của nhà Thằn Lằn, một thương gia lớn thuộc nửa Trắng đã cải đạo sang Rắn Chuông. Ông ta ngồi cạnh con trai mình. Cả hai đều có vẻ là những tay rắn mặt ra trò. Chúng tôi chưa từng gặp họ, thậm chí không thực sự biết họ. Và trừ khi các anh đã qua một vòng chào hỏi chính thức – rất tốn thời giờ – thì các anh nên vờ như không nhìn thấy nhau. Tiếp đến là hai người ăn vận như phụ nữ và tôi nghĩ họ đúng là phụ nữ thật. Có lẽ đó là hai người vợ của Koh. Có cả một gã mà tôi cho là thằng hề hoặc người mua vui gì đó vì hắn mặc một thứ quần áo rất ngộ nghĩnh, tua tủa như lông nhím. Khi con ngươi tôi giãn ra thêm một chút, tôi nhìn thấy một con chó ngồi chồm hỗm trong góc nhà, ngay sau lưng chúng tôi, ngoài ra còn rất nhiều bình lọ nhỏ, bát và mâm lớn, bày trên sàn nhà trải kín thảm màu xanh lơ pha trắng lóa cả mắt, đựng đầy tuyết đang tan, một thứ hết sức xa xỉ. Trên bức tường sau lưng họ treo một bức bích họa lớn vẽ hình các nữ thần lùn (Nguyên văn: “gnomide” – nhân vật cổ tích được mô tả dưới hình dáng như người lùn, chuyên sống dưới đất hoặc nước để canh giữ các kho báu.) đang vui mừng nhảy múa dưới chân một ngọn núi lửa đầy nước.

Theo 14, đây là một nhà công cộng của năm hay sáu gia đình gì đó. Và tất cả đều là phụ nữ. Tuy nhiên, ở đây người ta không coi đấy là hôn nhân đồng tính. Theo như tôi hiểu qua những gì 14 nói – hắn nói cũng chẳng mạch lạc gì cho lắm – thì các con gái của Nhện Dệt Cầu Vàng không hẳn là ái nam ái nữ. Không những thế, họ được xã hội coi là nhưng người bình thường, những gia đình có quan hệ khác giới, với một vài phụ nữ đóng vai trò của nam giới, còn những người khác là nữ giới. Công Nương Koh là một trong các “k’iik”, điều đó cho phép bà ta xuất hiện trong các không gian nghi lễ dành cho giới đàn ông, chẳng hạn như khu đền miếu trong kim tự tháp Rắn Chuông. Tôi đoán rằng…

Ối giời ơi. Cái trò quỷ sứ gì thế kia?

Con chó vừa đứng lên bằng hai chân sau. Tôi thoáng rùng mình. Đó là người. Một người lùn với khuôn mặt dài ngoẵng như mặt chim và gần như trần truồng. Khắp người cô ta bôi màu xanh lá cây, nhưng dưới ánh sáng như thế này nom lại thành màu đen. Khi cô ta lật đật đi qua chỗ bếp lò, tôi chợt nghĩ tới con chim cánh cụt. Tuy nhiên, tôi không hề cảm thấy buồn cười. Cô ta không phải người lùn vì chứng loạn sản sụn như Sên Xanh 3,- tôi nhận xét thầm, – cô ta thuộc dạng người lùn mà chúng ta gọi là lùn bẩm sinh từ trong trứng nước hay người lùn “đầu chim”. Hội chứng Seckel đây mà. Tôi nhớ rằng những người như vậy không sống được lâu. Có lẽ cô ta chưa đến hai mươi. Tôi còn từng nghĩ là họ chậm khôn, nhưng xem ra cô ta cũng bình thường. Cô ta ra hiệu “hãy lắng nghe”. Tôi khom mình xuống thấp hơn một chút.

– Các ngài, ở trên chúng tôi,… công nương Koh chỉ tiếp chuyện… với một người tham vấn mỗi lần, – cô ta nói, giọng đều đều, rên rĩ như tiếng mèo kêu, không những thế, cô ta còn dùng tiếng của nam giới Teotihuacán, âm sắc rất khô khan.

– Tôi, dưới chân các ngài, là người thỉnh kiến, – tôi đáp rồi nhìn sang Hun Xoc.

Nó nhìn lại, hơi ngần ngừ. Điều này trái với chỉ thị mà nó được giao là để mắt đến tôi từng phút. Song chẳng làm thế nào khác được. Cuộc diện kiến của tôi với công nương Koh là mấu chốt của sứ mệnh này. Nó nhướng mắt, ý nói: ” thôi vậy, sao cũng được”.

Cảm ơn cậu đã tin tưởng, – tôi ra hiệu bằng mắt.

Cô gái lùn đã nhấc một tấm thảm lên. Có một cái hố vuông bên dưới. Hệt như trong cung điện hoàng gia Pháp dưới thời Louis XIV, ở đây người ta cũng thích phát cuồng lên những cánh cửa sập, đường hầm và ô cửa theo dõi. Cô ta bò chúi đầu xuống hố như con Thỏ Trắng (Nhân vật trong cuốn truyện “Alice ở xứ sở kỳ diệu.). Tôi đặt một chân xuống để ướm thử xem nó sâu đến mức nào và chạm vào một nền đất mấp mô. Tôi chui xuống và bò theo cô ta. Hai đầu gối tôi cứ vướng vào cái váy khố làm tôi vấp liên tục. Con đường hầm dốc xuống chừng ba mươi độ. Tôi lần bò trong bóng tối khoảng mười lăm sải tay rồi thò đầu ra khỏi một cái lỗ chuột, bước ra một hành lang ngoài trời. Cô gái lùn dẫn tôi rẽ vào một cái ngách, bước qua cánh cửa nhỏ che một tấm da sống vào một căn phòng tối rộng chừng tám sải tay. Nó nằm trên nền đất thấp hơn căn phòng trước nhưng mái lại cao bằng, vì thế, trần nhà cao gần đến hai mươi sải tay, khiến người ta có cảm giác như đang đứng dưới đáy giếng. Một dải ánh sáng xanh lơ chiếu xuống từ ô cửa trần được che bằng da ngâm tẩm dầu mà tôi đoán là hướng ra sân đền ở phía trên. Bốn bức tường phủ bằng thứ gì đó như nghững chiếc vảy bằng kim loại. Có một lò sưởi bằng đất nung trơn với mấy hòn than sắp tắt, hai chiếc rổ to bằng bát đựng quân cờ vây, một cặp phất trần xua ruồi cắm trên giá nhỏ, một cái đế bằng xương cắm bó đuốc sim bốc ngọn lửa màu xanh lá cây. Chiếc mũ lông chim xanh và chiếc bình đựng da ếch độc chúng tôi gửi tặng nằm thu lu trong một góc nhà như hai con mèo đang ngủ. Trong không khí có cái mùi là lạ mà tôi không sao diễn tả được.

Không phải mùi khói đăng đắng từ bên ngoài bay vào, cũng phải mùi thơm của quả sim nửa giống hương dầu lanh, nửa giống hương cây xanh quanh năm, bốc lên từ khói đuốc. Ngửi nó giống như… ờ… tôi thấy nó giống mùi ngược lại của mùi quế, nếu có cái thứ như vậy trên đời. Mặc dù mùi thì không phải là màu sắc. Không có mùi gốc như màu gốc trên bảng màu. Nhưng tôi đoán chính vì thế nó mới tạo nên một mùi mới mà màu sắc không thể. Tôi đưa chân khẽ khàng và sửa lại nếp áo choàng với cử động cố sao cho khéo léo và tự nhiên nhất. Nhưng thay vào đó, tôi vấp đánh uỵch một cái như con hải mã thọt chân. Khỉ thật, mình đúng là thằng hậu đậu – tôi nghĩ – phải tập dượt lại trò này mới được. Cô gái lùn đi vòng qua tôi và ra khỏi phòng qua lối cửa chúng tôi đã vào.

Tôi thu xếp tư thế quỳ gần như thằng ăn xin, nghiêm trang nhìn vào lò lửa. Dưới bắp chân tôi, sàn nhà trải một lượt chiếu giống như làm từ bọt biển, rắc cánh hoa phong lữ để tránh sự ô uế của tôi.

Tôi ngồi xuống. Tôi có cảm gì đó thật khó giải thích. Một phút sau tôi mới biết vì sao: đây là lần đầu tiên từ khi tỉnh dậy trong cái rọ tại sân tù của Sọ Đá Quý 2, tôi đã được ở một mình trong một căn phòng. Bực sao đây lại không phải thời cơ để trốn khỏi bọn trông trẻ kia.

Tấm da che cửa kêu sột soạt. Tiếng bước chân ngắn như bước chân trẻ con vang lên sau lưng tôi. Tư thế này không thuận tiện để quay lại nên tôi cứ ngồi nguyên. Một bóng người gầy nhom, lùn xủn – không quá một sải rưỡi – chống cây gập thắt ruy băng màu xanh lơ, lật bật đi vòng qua tôi. Bà ta run rẩy ngồi xuống bên kia lò lửa và đặt cây gậy xuống trước mặt. Một bà già cao tuổi trong bộ tóc và áo choàng của đàn ông.

Tôi hơn run một tí, trong bụng thôi, hy vọng thế. Khuôn mặt bà ta nhăn nheo và quắt queo đến mức như thể được gắn lại từ những mảnh đá vụn. Song tôi vẫn nhìn rõ nửa bên phải đen sì, còn nửa bên trái trắng nhợt như là màu da tự nhiên, với một đường viền cong hình chữ “S” hệt như trên bức vẽ của Sọ Đá Quý 2. Hai bàn tay xương xẩu của bà ta đặt chéo trên lòng. Mớ tóc đen của bà ta hẳn là tóc giả. Cặp mắt bà ta sâu hõm đến mức tôi thậm chí không nhìn thấy một tia sáng nào.

Sọ Đá Quý 2 chắc đã nhầm tuổi của bà ta. Nhưng ông ta nhầm thế nào được? Hay bà ta bị lão hóa vì một loại chất độc nào đó, như Viktor Yushchenko(Đương kim thủ tướng của Ukraine (nhậm chức năm 2005), theo nhiều nguồn tin, ông ta bị nhiễm độc dioxin) ấy?

Bà ta lựa tư thế ngồi thoải mái và đưa tay ra hơ trên lò sưởi cho dù nhiệt độ của căn phòng phải đến tám mươi độ (Tương đương gần 27oC.). Tôi gần như chắc chắn không còn ai khác bước vào phòng. Điều này thật khác thường. Không vệ sĩ. Chắc quý bà vĩ đại này không sợ bị tấn công.

Công nương Koh ngửa lòng bàn tay đen xỉn, nhăn nheo của mình lên. Nói câu gì đi nào – tôi tự nhắc mình. Tôi liền cất lời, bằng ngôn ngữ của giới đàn ông quý tộc ở Ix:

– Tzitic uy oc caba ten lahun achit, – tôi nói. Nghĩa là “tôi, dưới chân người, tên là Thằn Lằn Chân Lùn 10”. – Gia đình tôi, dưới chân người, gọi tôi là em trai (nghĩa là họ hàng) của người ở thị tộc Đại Bàng của thành Ix, là con trai (nuôi) thứ mười tám của Sọ Đá Quý 2.

– Vậy cha người là ai? – bà ta hỏi. – Và những cái tên khác của ngươi, ngoài Thằn Lằn Chân Lùn 10, là gì?

– Sọ Đá Quý 2 là cha tôi.

– Vậy ai là người soi sáng những lần thức tỉnh của ngươi? – bà ta hỏi. Tôi chưa trả lời câu hỏi về những cái tên, nhưng cũng như những tay tra khảo khôn khéo khác, bà ta không nhắc lại những câu hỏi không thành, hoặc chưa thành.

Tôi nói cho bà ta hay. Tức là tôi nói ngày lễ đặt tên của hai người bà của Sọ Đá Quý 2.

– Vậy ai soi sáng cho những người đàn ông của ngươi?

Tôi lại khai. Nghĩa là tôi điểm qua những cái tên khác thích hợp trong dòng tộc thuộc thị tộc Đại Bàng mà Sọ Đá Quý 2 đã xếp tôi vào.

– Vậy ngươi trở thành anh em của các k’iik thị tộc Đại Bàng từ khi nào?

– Ba mươi ba ánh sáng trước.

– Vậy ai đã cho ngươi grandessa của ngươi? – Nghĩa là người đếm mặt trời nào là thầy của tôi. Cái giọng móm mém không răng của bà ta nghe còn già nua hơn cả bộ da, hệt như tiếng một súc gỗ cháy dở bị kéo lê trên mặt đường rải sỏi ẩm ướt.

– Là Răng Ngạnh 7, – tôi đáp, – của nhà Đại Bàng ở thành Ix. – Chính tôi nghe câu này cũng không thấy thuyết phục..

Mày đang lo lắng quá đấy thôi, – tôi tự nhủ, – mày đang làm tốt lắm. Đừng căng thẳng.

– Sao ngươi, bên cạnh ta, không tin Ngọc Giá Trái, con trai của Bị Thương 14? – bà ta hỏi. – Hắn ta lắm lời quá sao?

– Tôi rất tin tưởng anh ta.

Hừm, – tôi băn khoăn khó hiểu, – chẳng lẽ bà ta theo dõi chúng tôi qua khe cửa nào đó khi chúng tôi ở ngoài sân đền? Và nếu bà ta làm vậy thì chẳng lẽ những gì tôi nghĩ về Ngọc Giá Trái được thể hiện qua cử chỉ rõ đến thế sao? Hay thế nào?

– Vậy nhà Đại Bàng có còn vững chãi, còn xanh tươi chăng? – bà ta hỏi. Câu thành ngữ ấy có nghĩa là “các tấm ván tường còn bám chặt vào cột nhà và mái nhà lợp rơm còn được thay mới thường xuyên không”. Ý là họ có bình an không.

Tôi đáp rằng thị tộc tôi vẫn ổn cả.

– Nhưng họ còn một trận đấu bóng hông lớn với nhà Mèo Rừng phải không, – bà ta nói.

Chết tiệt, – tôi rủa thầm. Ở tận đây mà bà ta cũng nghe được tin đồn chúng tôi gặp rắc rối. Dù anh có cố đi nhanh đến mức nào thì tin tức vẫn đi nhanh hơn. Lan truyền với tốc độ này thì chẳng khác gì anh đưa cho mỗi người một chiếc di động. Liệu bà ta có biết vụ hỏng việc trên đỉnh kim tự tháp không nhỉ? Liệu bà ta có đoán được chuyến viếng thăm của tôi có liên quan đến việc ấy?

Tôi ra hiệu rằng phải, trận bóng hông lớn đó sắp diễn ra. Tôi không nói gì thêm.

– Và ngươi từng chơi bóng hông, – Koh nói, – nhưng bây giờ không chơi nữa. Phải vậy không?

Quỷ sứ ạ. Bà ta đoán ra nhờ cơ thể to lớn và cái mũi gẫy của Chacal chăng? Hay bà ta nhận ra vài cử chỉ đặc biệt? Hay bà ta, hoặc quân do thám của bà ta, liếc thấy những vết sẹo trên đầu gối và khủy tay tôi, nơi các vết chai đã bị tẩy đi. Gì thì gì, không ai muốn nói dối nhiều hơn mức cần thiết. Tôi gật đầu.

Koh im lặng.

Sọ Đá Quý 2 và tôi đã ngồi hàng giờ với nhau để ôn đi ôn lại cách tôi sẽ trình bày câu chuyện của mình, ý tưởng chung là phải tiếp cận càng nhẹ nhàng càng tốt. Tôi sẽ đề nghị bà ta chơi một ván để đoán định ngày tận số của Teotihuacán. Nếu cần, tôi sẽ cho bà ta biết một vài thông tin chỉ riêng tôi có để thuyết phục bà ta rằng thành phố này sắp diệt vong. Tiếp đó, tôi sẽ dẫn dắt câu chuyện đến những rắc rối của hội Rắn Chuông. Theo đúng bài, tôi sẽ kéo bà ta vào câu chuyện, khiến bà ta nảy ra cái ý muốn biến khỏi thành phố này, rồi thử xem tôi có thể khiến bà ta ngỏ ý nhờ chúng tôi giúp đỡ, và tôi sẽ đồng ý giúp bà một nơi ẩn náu ở Ix.

Dĩ nhiên, để làm được việc đó, tôi phải thuyết phục được bà ta rằng chúng tôi có thể bảo vệ bà ta. Nhưng Sọ Đá Quý 2 lo ngại, không muốn cho bà ta biết quá nhiều chuyện. Chúng tôi nghĩ tôi có thể dùng vài mánh nho nhỏ để gây ấn tượng với bà ta – chẳng hạn làm cho bà một chiếc phong vũ biểu hoặc la bàn xoay, hay dùng thước elip để vẽ ra một hình e-lip, hoặc cho bà ta biết về phân số, giả dụ thế. Chắc bà ta cũng là con mọt sách lập dị đủ để thấy ấn tượng trước những thứ đó, vì bà ta là người đếm mặt trời mà. Và chúng tôi không nghĩ đến việc tôi có thể đánh đổi một vài mánh, hoặc một vài mẩu thông tin nào đó để lấy món thuốc và công thức pha chế. Nhưng tôi không nên hỏi bà ta về ván cờ trong cuốn thư tịch, vì điều đó sẽ dẫn đến câu chuyện về ngày Chúa tể 4 ở năm 2012, và nếu tôi tỏ ra đặc biệt lo lắng về ngày đó, bà ta sẽ nghi ngờ vì sao. Dù sao b’ak’tun thứ mười ba cũng xa cách lắm. chúng tôi đã thống nhất rằng tôi không nên nói chuyện với công nương Koh về Jed, hay về nơi tôi từ đó đến, hay những chuyện tương tự. Vì một lý do: bà ta sẽ không tin. Ngay cả loại người nhẹ dạ chuyện gì cũng tin cũng không thể hình dung ra những thứ đó. Chỉ những người đã thấy theo cái cách tôi và Sọ Đá Quý 2 đã thấy mới hiểu được tôi đang nói chuyện gì. Bằng không, sẽ chẳng khác nào tôi kể chuyện Sao Hỏa bằng tiếng Sao Hỏa.

Và nếu tôi cho bà ta xem quá nhiều trò, hay cho bà ta biết quá nhiều về khoa học, tôi sẽ trở nên nhiều quyền năng quá. Bà ta sẽ nghĩ tôi là loại người reo rắc ghẻ, hay thậm chí người khói, hay ma quỷ trong bộ lốt người. Hay tôi thay mặt cho một người đếm mặt trời vĩ đại nào đó, hành nghề thông qua Sọ Đá Quý 2 để che dấu thân phận ông chủ? Hay chính tôi là một người đếm mặt trời chín sọ vĩ đại mà bà ta chưa từng nghe tên, người từ trước đến nay vẫn che dấu tài năng của mình? Hoặc sẽ ra sao nếu bà ta nghi tôi là một gián điệp cho một trong hai Giáo hội lớn của Teotihuacán – những kẻ mà dân gian cho rằng chuyện gì cũng biết – phái đến để lôi kéo bà ta vào hành vi làm phản? Chẳng thể biết trước bà ta sẽ làm gì. Nhỡ bà ta báo lại với giáo hội của mình về tôi thì sao? Dù gì thì bà ta cũng đã tuyên thệ với họ. Biết đâu họ sẽ có phản xạ thiếu suy nghĩ rằng tôi là mối hiểm họa quá lớn đối với tình thế của họ hiện nay, và sẽ khiến tôi mất mạng.

May lắm thì Koh cũng sẽ nghĩ rằng bà ta đang bị thúc ép, rằng ngay khi tôi có được cái tôi cần, tôi sẽ bỏ rơi bà ta. Tôi chỉ nên thể hiện mình là một người đếm mặt trời mới vào nghề nhưng có tý năng lực đặc biệt thôi. Bà ta không nên biết nhiều về việc vì sao tôi đến Teotihuacán này, hoặc tốt hơn nên để bà ta nghĩ rằng tôi tiện ghé lại đây trên đường đi làm ăn buôn bán. Bà ta không nên biết Sọ Đá Quý 2 đang gặp rắc rối ở Ix. Nhưng chuyện đó thì quá muộn rồi. tôi phải khiến bà ta tin rằng Sọ Đá Quý 2 rất có thế lực và là nhà quý tộc duy nhất ở quê nhà có thể cho bà ta một nơi ẩn náu an toàn. Cần phải khiến bà ta cảm thấy việc trở về Ix là ý tưởng của chính bà ta. Và dĩ nhiên, điều tối hệ trọng là tôi không được hỏi bà ta về món thuốc, thậm chí không được nhắc đến nó. Nếu bà ta ngờ rằng nó chính là thứ chúng tôi cần, điều đó sẽ khiến chuông báo động ở cái thành phố này réo lên và bà ta sẽ quẳng tôi ra khỏi cửa.

Koh ra hiệu bằng bàn tay bé xíu, nhẹ bẫng của mình. Cô gái “Chim Cánh Cụt” lại xuất hiện sau lưng và đi vào giữa hai chúng tôi.

Cô ta xách một chiếc giỏ lớn bằng bàn tay với những cái ngón tay cong queo bé xíu của mình. Cô ta quỳ gối trước lò lửa, ngồi xuống và ấy ra hai chiếc bát đất nung có sáu khía răng cưa và hai chiếc bình uống nước hình trụ cao. Như mọi thể loại bát đĩa và bình vại ở Teotihuacán, chúng được làm rất công phu nhưng lại không có hình trang trí – y như Pyrex (Một nhãn hiệu đồ thủy tinh và nhựa), theo lời Esther Pasztory (Nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật thời Tiền Columbus người Mỹ). Hẳn là một vài vị người khói tối cao ở đây vốn nghèo, và bất cứ thứ gì quá xa xỉ đều có thể là mối hiểm họa vì nó khiến họ ganh tị. Cô gái lùn tuần tự trộn bột cacao với đậu hạt, mật ong và nước nóng, rồi máy móc chao từ bình nọ sang bình kia cho nổi bọt. Cô ta đặt chiếc bình rỗng xuống và dâng chiếc kia cho Koh. Bà ta uống một ngụm rồi đưa lại cho cô ta. Cô ta đưa nó cho tôi. Tôi ra dấu cảm ơn, uống một nửa, ra dấu khen ngon và uống nốt chỗ còn lại. Nó cay, cay như ớt vậy, và có vị hạch đậu khấu. Tôi đặt chiếc bình xuống và Chim Cánh Cụt cất nó đi.

Ở xứ này, người ta chỉ mời đồ uống có thế thôi. Tôi nhận ra mình đói. Chắc các bạn nghĩ họ sẽ bưng ra một khay cá chép rán hay thứ gì đó. Nhưng không, ở đây người ta không làm thế. Việc mời đồ uống giữa khách và chủ phục vụ nghi lễ hơn là phục vụ con khát. Ở đây người ta không thường xuyên ngồi chè chén với ai đó. Nó không giống với bữa trà ở phương Đông hay cốc-tai ở phương Tây, hay bất cứ thứ gì khác. Anh chỉ được cầm lấy phần của mình, uống hết sau càng ít ngụm càng tốt và chuyển sang cho người khác. Còn ăn nhẹ là việc anh làm một mình vào lúc khác. Đây là một trong những chuyện khiến tôi phát rồ nếu cơ thể của Chacal không quá quen với nó. Ngay cả những người đủ giàu để ăn bao nhiêu tùy thích cũng không ăn đến hai bữa một ngày. Và cứ khoảng ba ngày một lần họ lại nhịn ăn hoàn toàn. Thường thì mỗi khi tôi có dịp mời ai đó, như Hun Xoc chẳng hạn, một miếng thịt hươu khô, tôi sẽ nhận được câu trả lời rằng “Ồ, cảm ơn, tôi mới ăn hôm qua rồi”. Mà Hun Xoc chơi bóng hông, rất cần giữ cân nặng đấy. Và mỗi khi họ ăn thì thật là phí phạm. Trung bình khoảng ba phần tư số thức ăn trong một bữa tiệc hoàng gia sẽ bị đổ vào sọt rác. Thôi, sao cũng được. Tôi đang ở đâu cơ chứ?

Đến lúc phải mở miệng rồi.

– Chúng tôi, dưới chân người, đã mang đến một gói đồ, – tôi nói. Gói đồ là một cách tế nhị để chỉ quà cáp hoặc đồ biếu xén vì đó là một từ khiêm tốn nhất và chẳng ai biết có gì bên trong. – Tôi, kẻ dưới chân người, đã thử đọc các sọ để tiên đoán cho gia đình mình và thất bại. Chúng tôi cầu xin người hãy nhận gói đồ và thỉnh ý sọ giúp chúng tôi.

– Ngươi, bên cạnh ta, đã mang đến quà nhiều, – bà ta đáp.

Bà ta đãi tôi thêm một phút im lặng khó chịu nữa. Tôi nhắc lại lời thỉnh cầu. Chết dở, – tôi nghĩ, – nếu bà ta nói “không” thì có nghĩa là tôi đang bắt đầu làm hỏng toét mọi chuyện. Mặc dù, thực ra người đếm mặt trời không nên và không thể từ chối xem cho người khác, chí ít là khi hai người đang ngồi đối diện với nhau. Hoặc là có khi tôi đã quá tin vào cái phép lịch sự nghề nghiệp ấy.

Chim Cánh Cụt thắp thứ gì đó lên trong chiếc đĩa nhỏ. Đó là một bánh hương tròn, thứ họ dùng thay đồng hồ ở đây. Nhìn vào kích thước, có thể thấy nó tương ứng chừng một phần tư của một phần chín ánh sáng ngày, tức là khoảng bốn mươi hai phút. Phải nhanh lên thôi, – tôi nghĩ bụng. Nhưng sự im lặng cứ kéo dài mãi. Cuối cùng, bà ta cũng tặc lưỡi hai lần, nghĩa là đồng ý. Bà ta tháo hai dải ruy băng trên cây gậy. Hóa ra nó là một bàn cờ đan bằng cành liễu gai cuộn lại. Bà ta trải nó xuống cạnh phía Tây lò sưởi. Nó giống bàn cờ của Sọ Đá Quý, cùng số ô cờ và mọi thứ khác nhưng lớn hơn. Bà ta mở nắp một chiếc bình, lấy ra một nhúm bột thuốc lá và từ tốn xát nó lên mé trong đùi.

Tốt rồi, – tôi nghĩ, – hỏi một câu dễ trước đã.

Tôi xin bà ta cho tôi biết ngày chết của mình.

Bà ta lấy ra một túi hạt cây t’zee và rải chúng khắp bàn cờ.

Cung cách của bà ta có vẻ gì đó rất qua loa đại khái khiến tôi cảm giác bà ta chẳng định ban cho tôi thứ gì ngoài một cuộc tiếp kiến chóng vánh nhất có thể. Bốn quân cờ rượt đuổi viên đá tượng trưng cho tôi đến gần cuối đường. Sau một chốc tính toán, bà ta cho tôi ngày Wak Ahau, Waxac Muan tới, tức là ngày Chúa tể 6, Cú 8, nghĩa là một trăm ba mươi hai ngày nữa tính từ hôm nay. Có lý lắm, ít ra là đối với cái chết của cái xác này. Với sự tiến triển dự tính của các khối u trong não, tôi chỉ còn chừng một trăm mười ngày tỉnh táo nữa. Ngoài ra, cái chết còn có thể rơi vào một số ngày trước đó: đó là ngày Kan Muluk, Wuklahun Xul, tức Mưa 2, Kết thúc 17, hoặc Hun Eb,Mih Mol, tức Chảy xiết 1, Sum họp 0. Sao cũng được, – tôi nghĩ. Tôi gật đầu tỏ ý chấp nhận lời tiên đoán.

Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa thấy có gì hay ho. Sự tiên đoán này chẳng lấy gì làm xuất chúng. Tôi liền hỏi tiếp câu thứ hai: Con cháu tôi – không phải con cháu của chính tôi vì tôi làm gì có, mà là con cháu của gia đình tôi, cũng tức là gia đình Sọ Đá Quý 2 – sẽ ở đâu vào ngày Đêm 9, Nước đen 1 củatun thứ nhất, k’atun mười lăm, b’ak’tun mười một? Và có bao nhiêu đứa ở đó cả thảy?

Câu hỏi này khá thông thường, trừ thời gian đặt ra. Đó là năm 1522 Công nguyên, tức 313.285 ngày nữa tính từ hôm nay, một trong những ngày thảm họa được nhắc đến trong ngày Thư tịch.

Koh xem ra chẳng có phản ứng gì trước câu hỏi. Bà ta lấy năm hòn đá và các hạt ngô rải khắp bàn cờ, đếm rất nhanh và bảo tôi rằng ngày hôm đó, khoảng mười lăm lần hai mươi người của nhà Đại Bàng sẽ được cải táng tại nơi chôn cất tổ tiên họ ở “miền bắc không có sông chảy qua”. Là Yucatán, – tôi nghĩ. Những người khác, khoảng một trăm lần hai mươi người, sẽ “chạy toán loạn khắp các cánh rừng rậm và rừng thưa lúc đó đã che phủ khắp các thành phố”.

Ừ, cũng khá ấn tượng đấy, – tôi nghĩ. Nào, bây giờ đến câu hỏi lớn.

– Thành phố Lưỡi Dao sẽ kết thúc sự sống vào mặt trời nào? – tôi hỏi.

Bà ta lại im lặng một lát như thường lệ. Tôi ngồi yên. Cuối cùng, bà ta cũng lên tiếng:

– Những người con (ý bà ta nói những người xem bói) đã hỏi ta câu này bốn trăm lần.

Bà ta nói rằng trong một k’atun vừa qua, vài người đếm mặt trời táo tợn đã điểm ra một số ngày tận thế của thành phố. Chúng đều đã qua và tất cả những đếm mặt trời kia đều bị xử tử hoặc phải trốn chạy. Tuy nhiên, vẫn có một cảm giác chung ngấm ngầm rằng sự kết thúc đó đang ở rất gần, ít nhất là trong giới đếm mặt trời và khách hàng qúy tộc của họ. Thậm chí một vài thị tộc cai trị cũng đã âm thầm chấp nhận sự thực này và đang chuẩn bị cho một cuộc di trú.

Tôi gần như chắc chắn đã nhắc đến ở đoạn nào đó trong câu chuyện này, rằng tôi không biết thành phố này tồn tại được bao lâu nữa. Và có lẽ chẳng ai biết. Số liệu khảo cổ thì mù mờ. Sự sụp đổ của Teotihuacán cũng không được nhắc đến trong cuốn Thư tịch Nurnberg, hay ít ra là trong những trang mà chúng ta có. Và giờ đây, theo lời Koh, nó chưa xuất hiện trong bất cứ ván cờ nào mà người ta biết.

– Nhưng bản thân người chưa tìm ra một ngày nào ư? – tôi hỏi.

– Điều đó đang ở quá gần mắt chúng ta, – Kohđáp.

Ý bà ta muốn nói đến… ờ… cái mà Taro gọi là vấn đề hình nón sự kiện. Nghĩa là rất khó dự đoán được một sự kiện mà anh có khả năng tác động để làm thay đổi. Anh có thể không nhìn thấy bởi nó ở quá gần. Họ cũng gọi hiện tượng này là vấn đề của người tham gia quan sát. La Rochefoucaul (Nhà văn thuộc giới quý tộc người Pháp thế kỷ 17) gọi nó là “l’aveuglerie de l’oeil qui ne voit pas lui-memem”, nghĩa là “sự mù quáng của cặp mắt không tự nhìn thấy mình”, còn Stephen King (Nhà viết tiểu thuyết kinh dị người Mỹ )thì gọi đó là “vùng chết”. Các bạn hẳn nghĩ rằng dự đoán tương lai gần thì dễ hơn tương lai xa. Điều đó thường đúng đến một giới hạn nào đó. Nhưng qua giới hạn ấy thì không. Giống như tự nghe lời khuyên của chính mình bao giờ cũng khó khăn hơn..

– Nhưng người, ở trên tôi, có thể chơi để tìm ra mặt trời đó chứ? – tôi hỏi.

– Mặt trời đó sống trong khói, – Koh đáp.

Hừ, đồ giời đánh, – tôi nghĩ, – bà ta đang nghĩ đến chuyện lảng tránh mình đây. Chết tiệt, chắc bà ta cũng phải có tí tò mò chứ. Hẳn bà ta cũng thắc mắc tôi là loại người đếm mặt trời nào mà nhìn thấy trước những điều viết trong thư… thôi, sao cũng được. Cho bà ta biết thêm tí chút vậy.

– Tôi biết thành phố Lưỡi Dao chỉ còn đầy vài nắm tay ánh sáng mặt trời nữa thôi, – tôi nói.

– Ánh sáng này, ánh sáng trước đó và sau đó, – bà ta đáp, – vẫn như vậy kể từ khi ta đến đây.

Câu nói đó ý là “Vẫn như mọi khi. Còn gì mới hơn không?”. Đó không phải là câu trả lời đúng phép lịch sự cho lắm. Nhưng chắc bà ta nghĩ mình là người bề trên…

– Ch’ak sac la hun Kawak, ka Wo, – bà ta nói tiếp. Tức là “Đừng bắt đầu câu chuyện về Bão Lốc 10 hay Cóc 2 đấy”, nhưng với ý nghĩa nhấn mạnh hơn, giống như “Đừng có đưa ra phán đoán gì về ngày đó. Cứ ở trong nhà và tránh xa rắc rối ra”.

Tôi gật đầu “Vâng”.

– Tốt, – bà ta ra hiệu.

Bà ta đứng dậy, hơi lẩy bẩy một tý, tập tễnh đi vòng qua tôi ra phía tấm da che cửa. Tôi nghe tiếng nó kêu sột soạt.

Tôi ở lại một mình. Tôi ngồi đếm bốn trăm nhịp, rồi bốn trăm nhịp nữa. Bà ta không quay lại.

Trò chết toi gì thế này? – tôi phân vân – thế là sao? Bà ta cứ thế biến đi à? Ở đây có ai làm thế đâu? Thế là thế quái nào? Thế quái nào?

Tôi cứ ngồi nguyên. Tôi đếm thêm bốn trăm nhịp nữa. Tôi nghe ngóng. Tôi chẳng nghe thấy cái chết dẫm gì. Sao người ta có thể yên lặng đến thế được nhỉ? Khu nhà này được thiết kế thế nào đó để tránh tiếng ồn ào của thành phố. Tôi không cảm thấy bất cứ luồng không khí chuyển động nào. Khói từ bó đuốc bốc thẳng lên ô cửa trần. Tôi ngồi thêm một lúc nữa.

Hừ, đúng là đại bại, – tôi nghĩ, – có lẽ chúng ta đã đi cả chặng đường để chẳng được gì sất. Có lẽ Sọ Đá Quý 2 chỉ muốn mình biến đi cho khuất mắt thôi. Có lẽ ai đó sắp đến đằng sau lưng và xiết cổ mình. Có lẽ công nương Koh cũng chẳng lấy gì làm cao siêu. Khỉ thật, sao mình lại dính vào cái lũ kém cỏi này nhỉ? Mình chỉ cần có mỗi một điều là gặp được người nào đó hay hớm ra trò thôi mà. Chỉ một người thôi.

Tôi đếm thêm tám trăm nhịp nữa. Tôi cảm thấy hơi lâng lâng. Thứ gì đó trong món sô-cô-la đã đưa tôi vào trạng thái này. Tôi không rõ nó là trạng thái gì, nhưng đó là một trạng thái gì đó.

Lẽ ra tôi nên cho bà ta biết nhiều hơn mới phải những điều trong bức thư thực sự chưa đủ để gây sự chú ý. Nghĩ đến chuyện này, sao Sọ Đá Quý 2 lại muốn tôi kín đáo đến thế làm gì? Chắc ông ta không muốn tôi gây ra được quá nhiều ấn tượng với Koh vì muốn bà ta nghĩ mọi điều hay ho là đến từ ông ta. Ông ta không muốn Koh ngạc nhiên quá mức cần thiết vì không muốn tôi trở nên vênh váo hoặc quá tự tung tự tác.

Hừ, muộn quá rồi.

Có lẽ tôi nên quay về nơi tôi đến, nếu có thể tìm được lối ra khỏi chỗ này. Hay nên ngồi đây thêm vài giờ nữa xem chuyện gì xảy ra. Hay….

Mẹ kiếp.

Tôi không thường xuyên nghĩ mình sáng suốt gì cho lắm, ít nhất là về những thứ nằm ngoài giới hạn tôi có thể nắm bắt, như cờ Hiến tế chẳng hạn. Nhưng vì một lý do nào đó – bây giờ tôi đang có cảm giác như người ta thường có khi ở một mình vào ban đêm, trong một căn nhà đèn đuốc sáng trưng, một căn nhà bí bách với các ô cửa sổ bịt kín, và đột nhiên biết chắc chắn rằng mình đang bị theo dõi, và không phải bởi những người đứng về phía mình hoặc chỉ vì tôi phát chán – tôi với tay, giật bó đuốc khỏi chân đế và quăng nó xuống sàn. Tàn lửa bắn tóe ra như núi lửa Vesuvius phun trào. Như tôi đã tả, bó đuốc được làm từ cành sim nhúng vào mỡ chó, và những hạt quả cháy sáng văng khắp tấm thảm, kêu xèo xèo và lụi dần, tôi đoán thảm ở đây được vẩy nước hơi ẩm, giống chiếc tatami của Nhật.

Tôi ngồi trong bóng tối. Chút ánh sáng xanh chiếu xuống từ ô cửa trần cũng không còn nữa. Chẳng còn tí ánh sáng nào. Tôi ngồi giữa đêm đen. Chấp nhận đi, Jed. Mày thất bại rồi. Tôi nhìn đăm đăm tàn đuốc nằm rải rác trên sàn nhà, lần lượt lụi đi như một dải thiên hả đang tắt dần.

Tôi lắng nghe. Chẳng có gì sất. Tôi ngồi yên. Tôi nghĩ mình vừa trông thấy thứ gì đó.

Trong phòng vẫn còn ánh sáng. Nó ở ngay trước mặt tôi. Chính xác hơn, nó không ở trong căn phòng này, mà hắt vào từ bên ngoài. Tôi rướn người qua nắp lò sang chỗ Koh ngồi lúc nãy và căng mắt nhìn vào bóng tối. Đó là ánh sáng từ một lò than cháy đượm hơn, le lói hắt qua một bức ngăn mà tôi đoán là bằng lông chim. Còn một căn phòng khác phía bên kia tường. Nó không hẳn là tường, mà là một vách ngăn có ánh kim loại, tựa như màn trong rạp hát. Bất kể những vẩy ánh kim này được làm bằng gì, chúng cũng đóng vai trò như tấm kính. Và có ai đó ngồi sau nó, cách tôi chỉ chừng ba tầm tay. Tôi dần nhìn thấy đường viền một bóng người, rồi thấy những đường nét chính. Đó là một phụ nữ còn trẻ, cùng vóc dáng và điệu bộ như bà già lúc nãy.

Bà ta biết, – tôi nghĩ, – bà ta biết mình nhìn thấy bà ta.

Bình tĩnh nào, – tôi tự nhủ. Tôi hít vào một hơi, chỉnh đốn lại xương sống và thở ra. Người phụ nữ kia không động đậy. Lúc này, tôi đã nhìn thấy các chi tiết nhỏ hơn. Bàn tay phải của bà ta hình như được tô đen, tôi nhìn nó không được rõ lắm, nhưng bàn tay trái để trắng tự nhiên và tôi tập trung quan sát nó. Nó có bảy ngón. Ngón nhỏ nhất thon nhọn và không chia khớp, nom như xúc tu của con hải quì và nhỏ chỉ bằng một viên đạn 22 ly. Tôi ngước lên nhìn mặt bà ta. Nó để trắng hầu hết nửa trên và được tô đen phần dưới, với một đường viền chạy dưới mắt trái, ngang qua phía trên môi, sang má phải và xuống đến góc hàm dưới.

50

– Ngươi, bên cạnh ta, còn dùng những cái tên nào khác? – người đàn bà hỏi. Giọng bà ta cũng hệt như giọng bà già khi nãy.

Nên cho bà ta biết vài điều thôi, – tôi tự nhủ.

– Tên chơi bóng hông của tôi là Chacal, – tôi đáp.

– Và ai là những người cha khác, những người mẹ khác, những người anh, người em khác của ngươi? – thoạt tiên, giọng bà ta hơi khào khào như người già trước tuổi, nhưng khi đến chữ “na’ob” –”những người mẹ” – nó bắt đầu dịu đi và mượt hơn, như thể bà ta đang trẻ lại.

Tôi nói tên cha đẻ của Chacal.

– Và ngươi từ đâu đến? – lúc này, giọng bà ta có vẻ đã về đúng chất giọng tự nhiên, giọng nữ trầm khá trong, trầm hơn chất giọng phổ biến của phụ nữ Maya.

Trò khỉ gì thế này? – tôi thắc mắc. Vậy ra khi bà già kia tiếp chuyện tôi thì công nương Koh thật ngồi nói tiếng bụng sau lưng bà ta. Để làm gì? Và làm thế nào kẻ nói đớp kia biết lúc nào nên mấp máy môi? Chắc phải có tín hiệu gì đó. Một sợi dây, hay sợi thừng dưới sàn chẳng hạn. Hừ, sao cũng được.

– Từ thành Ix.

– Trước đó?

– Từ Bolocac, – tôi trả lời. Đó là tên ngôi làng của Chacal.

– Và ngươi đến từ vùng nào của Bolacac? – Koh hỏi. Bà ta nói bằng một giọng ngân nga và nó làm tôi hơi u mê đầu óc một tí.

– Từ Yananekan, – tôi đáp, chưa kịp suy nghĩ gì. Đó là tên gọi ngày nay của một vùng gần Alta Verapaz, nơi tôi, tức Jed, lớn lên. Quỷ thật!

– Và sau đó, nhưng trước Bolacac?

– Tôi đang tăm tối, – tôi đáp, hơi ngơ ngẩn. Câu ấy có nghĩa là “tôi không hiểu”. Mẹ kiếp, Jed, – tôi tự nhủ, – mày đang để con mụ ái nam ái nữ này điều khiển đấy. Trấn tĩnh lại đi.

– Ngươi hẳn phải rời Yananekan trước khi trở thành một k’iik.

Tôi ra hiệu “phải”. Tôi cảm thấy bà ta nhìn tôi dò xét. Có lẽ tôi không nên cố lừa bà ta. Như mọi tay đếm mặt trời có hạng khác, bà ta có thể đọc được quân bài qua bức tường chì.

– Mặt trời nào soi sáng chuyến lên đường của ngươi?

Tôi phịa ra một ngày thích hợp.

– Khi đó người ta gọi ngươi là gì?

– Họ của tôi là Chacal.

– Nhưng đó đâu phải cái tên ban đầu của ngươi?

Tôi định đáp rằng nó chính là tên ban đầu của tôi, nhưng lại ngần ngại. Muộn mất rồi, – tôi nghĩ. Nói thế chẳng khác nào khẳng định điều ngược lại.

Bà ta im lặng. Tôi liếc nhìn bà ta lần nữa. Khi Sọ Đá Quý 2 cho tôi xem bức ảnh vẽ khuôn mặt bà ta, tôi đã nghĩ những họa tiết trên mặt chỉ là vẽ trên da. Nhưng bây giờ, tôi thấy hình như nó nằm dưới da, được xăm vào. Thực ra, – tôi nghĩ, – ngay cả với những thứ vằn vện đó, bà ta nom cũng không hề xấu. Nước da bà ta rất đẹp, nếu tính theo độ trong suốt, khuôn mặt cân đối và dịu dàng, vẻ dịu dàng đầy trắc ẩn, vẻ dịu dàng của một người mẹ, hay đúng hơn, của một bà mẹ tương lai, như thể một ngày nào đó bà ta sẽ rất yêu thương những đứa con của mình, nhưng không phải bây giờ. Tôi vội nhìn xuống và cắm mắt vào cái bóng lờ mờ của một cánh hoa phong lữ trên tấm thảm trước mặt.

– Ngươi, bên cạnh ta, vì sao ngươi tới đây? – bà ta hỏi.

– Vì Sọ Đá Quý 2 muốn bảo vệ gia tộc mình.

– Sọ Đá Quý 2 muốn thứ mà ông ta muốn. Nhưng ngươi, bên cạnh ta, ngươi muốn gì? – Có sự đổi khác trong giọng nói của Koh, điều gì đó… hừ, tôi không biết phải diễn đạt thế nào. Một thoáng phật ý, như muốn nói: “vì sao ngươi không tin ta?”.

– Tôi, dưới chân người, chỉ muốn điều mà ông ấy muốn, – tôi đáp.

– Nhưng ta thấy dường như ngươi muốn nhiều hơn thế.

– Tùy người, ở trên tôi, nói.

Im lặng.

Tôi đếm bốn mươi nhịp.

– Ngươi có thuộc về nơi này không? – cuối cùng bà ta hỏi.

Không, – tôi nghĩ thầm, – hoàn toàn không… Nhưng rồi tôi nhận ra không phải tôi nghĩ, mà tôi vừa nói ra câu ấy. Chết tiệt. Tôi liền phá bỏ phép lịch sự, ngẩng đầu nhìn lên. Bà ta đang nhìn tôi.

Bà ta nhìn thấy điều đó, – tôi nghĩ, -bà ta thấy sự cô độc của mày, nó lênh láng khắp người mày như màu xanh trên người Smurf (Nhân vật hoạt hình có màu da xanh dương mà ở ta vẫn gọi là Xì-trum) vậy. Tôi lại nhìn xuống và ra hiệu: “tùy người, ở trên tôi, nói”.

– Vậy ngươi đến từ đâu, trước Bolocac?

– Tôi đến từ miền bắc, – tôi đáp.

Mình việc gì phải trả lời những câu này, – tôi tự nhủ, – sắp phát bực lên rồi đấy…

– Cách đây bao xa?

– Xa hơn từ đây đến Ix, – tôi đáp. Thôi chết, – tôi nghĩ, – mình có định nói thế đâu.

– Ngươi đến từ nơi xa hơn cả Biển Xương? (ý bà ta muốn nóiđến vùng sa mạc nằm ở phía bắc vùng hồ).

Tôi định ra hiệu “người nói sao cũng được” lần nữa, nhưng lại nghĩ thế này thì mình sắp thành thằng ngu xuẩn, hèn nhát, ti tiện, chuyên nói quanh co. Vì vậy tôi ra hiệu “vâng”.

– Ở đó như thế nào?

– Nó khác ở đây và khác Ix, – tôi đáp.

– Khác như thế nào?

– Rất khác, – tôi nói chẳng giống tôi chút nào.

– Nhưng nó khác hơn “rất khác” nhiều.

Tôi im lặng. Quái thật, – tôi nghĩ.

– Người nói đúng, – tôi đáp, – nó khác theo cách không thể vẽ lại được, – Nghĩa là không thể hình dung được.

Câu trả lời đó dường như khiến bà ta ngập ngừng một giây.

– Ai là người cha đầu tiên của ngươi?

Tôi lặng thinh. Chết dở, – tôi nghĩ, – bà ta đang đến rất gần rồi. Cũng chẳng có gì là lạ. Mày đang ba hoa không khác gì một con ả ngu xuẩn sau hai hơibanano (Một loại thuốc chiết xuất từ vỏ chuối có chất Bananadine gây kích thích thần kinh). Mẹ kiếp.

Nào Jed, ngậm miệng lại. Tôi cũng xoay xở được để không mở miệng trả lời.

Sự im lặng cứ kéo dài mãi. Một trăm hai mươi nhịp. Hai trăm nhịp. Cuối cùng, trái với suy nghĩ tỉnh táo của mình, tôi nhìn lên.

Ối giời. Tôi vội nhìn xuống.

Tôi nghĩ tôi vừa nhìn thấy vẻ đáng sợ trên nét mặt bà ta. Không giận dữ, nhưng đáng sợ.

Chết tiệt. Bà ta biết mày đang giấu diếm chuyện gì đó. Chuyện gì đó rất ghê gớm. Có lẽ bà ta đã để ý thấy vài chi tiết nhỏ trong điệu bộ của mày. Coi chừng đấy. Mày có thể mất tích ở chỗ này. Nhà Đại Bàng giàu thật, nhưng cũng chẳng có ảnh hưởng gì mấy ở Teotihaccán này đâu. Ngay cả khi Nhện Dệt Cầu Vàng đang gặp rắc rối về chính trị, họ vẫn có thể đập bẹp chúng mày như một con rệp.

– Người khói nào chiếu sáng khuôn mặt mẹ ngươi?

Tôi nói ngày đặt tên của mẹ Chacal. Tôi cứ có cảm giác thôi thúc muốn tuôn ra thêm, nhưng tôi đã dùng lưỡi mút một phần môi trên vào một lỗ hổng giữa hai miếng khảm răng nhô ra và mút mãi cho đến khi đau nhói, nhờ thế mà giữ được im lặng. Đó là mẹo của Chacal. Khỉ thật, có thứ chết toi gì trong cái thức uống của nợ ấy thế nhỉ? Nó hẳn phải là một chất gây phân ly não bộ, chất gì đó chiết suất từ cây hoa xô đỏ, thậm chí là tetrodotoxin (Chất gây ức chế hoạt động của các tế bào thần kinh) hoặc… ôi thôi, là gì thì là, mày có thể chế ngự được nó. Dễ thôi. Nhớ lấy, đặc điểm lớn nhất của thuốc “nói thật” là chúng chẳng bao giờ có tác dụng. Cùng lắm cũng chỉ khiến người ta nói ra hàng tràng không dừng được thôi. Vận hết chí khí lên. Và đừng có uống thêm ngụm nào cái món sô-cô-la nóng ấy nữa. Tôi cắn chặt môi. Oái.

Cô gái Chim Cánh Cụt lạch bạch đi qua ngang trước mắt tôi. Cô ta luồn một ngón tay chùn chũn của mình qua nút thòng lọng trên bức vách ngăn giữa Koh và tôi và bước sang bên cạnh. Bức vách cũng chuyển động cùng cô ta, xếp lại như một chiếc ác-coóc-đê-ông. Bây giờ, công nương Koh và tôi mới thực sự ngồi trong cùng một không gian và sự thay đổi đó khiến tôi giật mình, như thể không phải Chim Cánh Cụt vừa kéo tấm vách mà cô ta vừa lột bỏ quần áo của tôi. Lúc này, tôi mới nhìn rõ nửa đen trên khuôn mặt Koh không phải vết xăm mà là màu da tự nhiên. Bà ta bị chàm. Nửa mặt bên phải có màu của melatonin (Một loại hoóc-môn trong cơ thể động vật) tích tụ, tựa như nốt ruồi, tức là gần như đen kịt. Nửa trên khuôn mặt không phải màu xanh lam như trong bức vẽ của Sọ Đá Quý 2. Nó chỉ có màu da bình thường của người Maya, nhưng cũng như nước da của mọi phụ nữ quý tộc khác, nó trắng bệch vì không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Hình như cũng có một vài hình xăm, nhưng chỉ để phân định ranh giới giữa hai nửa. Đường hình xăm đó quá mịn và ngoằn nghoèo nên không thể là tự nhiên được. Bà ta có những đặc điểm dị hình, Sọ Đá Quý 2 đã nói thế. Đúng thật.Và ông ta còn nói rằng Koh có họ với Janaah’ Pacal, ahau của Lakamha, tức Palenque. Và ông ta có mười một ngón tay, phải vậy không? Có lẽ rối loạn sắc tố da ít nhiều liên quan đến tật thừa ngón tay theo cách nào đó. Thực ra cũng chẳng có gì là dị dạng lắm. Còn hơn chán tật nhô hàm (Một tật khiến hàm dưới nhô ra và phát triển nhanh hơn hàm trên. Dị tật này còn được gọi là “Hapsburg lip” do nhiều đời của hoàng tộc Hapsburg – Hoàng tộc cai trị nhiều lãnh thổ rộng lớn của châu Âu từ thế kỷ 15 đến thế kỉ 18 – đều mắc tật này). Hay bệnh khó đông máu của Hanover (Chứng bệnh được coi là di truyền lại từ tổ tiên hoàng tộc Hanover – từng cai trị vương quốc Anh, vương quốc Ireland, vương quốc Hanover và công quốc Brunswick Luneburg – cho các hậu duệ của họ. Theo nhiều lời đồn đại, chứng bệnh này còn liên đới đến bệnh parhyria, một chứng rối loạn hiếm gặp, khiến người bệnh ở giai đoạn cuối những biểu hiện dị dạng như ma cà rồng). Bà ta hít vào một hơi và tôi thoáng nhìn thấy hai chiếc răng cửa được nạm thứ gì đó như ngọc lục bảo.

Cô gái lùn buộc bức màn đã xếp lại vào tường rồi biến mất, cứ như là tan biến đi vậy, có lẽ là qua một cái hang thỏ nào đó của cô ta. Cặp mắt của Chacal tỏ một cử chỉ lễ phép rồi lại nhìn xuống thảm.

Koh hỏi:

– Ngươi chạm vào cha ngươi lần cuối khi nào?

Ngươi chạm vào mẹ ngươi lần cuối khi nào?

Người khói nào rắc tro lên người bà?

Bóng tối đến với bà khi nào?

Vì sao ngươi lang thang

Không ở lại dưới chân họ,

Bên bếp lò?

Tôi có cảm giác là lạ trong cổ họng. Không, trong ngực nhiều hơn. Mẹ kiếp, – tôi nghĩ, -bà ta đang đọc ý nghĩ của mình. Đồ phù thủy. Tôi những tưởng mình đã che giấu kĩ lắm. Thế nhưng nãy giờ tôi chẳng hề cảnh giác và bây giờ bà ta đang rình chộp tôi. Nào, chậm lại. Đầu tiên phải nghĩ đã, rồi nghĩ lại, rồi hẵng nói.

– Thưa, người ở trên tôi, có rất nhiều lý do, – tôi đáp.

– Mẹ ngươi ở đâu, cha ngươi ở đâu?

Và khu vườn nhà ngươi ở đâu?

Bà ta hỏi mình câu này chưa nhỉ? – tôi phân vân. Tôi bắt đầu cảm thấy ong ong. Mày mụ mị đi rồi đấy, Jed – tôi nghĩ – định thần lại đi. Tôi mút mẩu da môi chặt hơn nữa. Vị máu nhàn nhạt chảy xuống lưỡi. Tôi không trả lời.

– Ngươi gặp chị gái, em gái thật của mình lần cuối khi nào?

Ngươi gặp anh trai, em trai thật của mình lần cuối khi nào?

Cánh đồng ngô nhà ngươi được đốt lần cuối khi nào?

Đã đốt sạch chưa?

Đã tra hạt, đã làm cỏ chưa?

Ai quét dọn kho thóc nhà ngươi?

Nó được lợp mái chưa?

Đã sạch sẽ để chờ vụ thu hoạch chưa?

Ai đuổi chim chóc?

Ai gói bánh ngô cho ngươi?

Ai hát tên ngươi ngoài quảng trường

Khi lũ trẻ vay quanh đống lửa?

Khi ngươi trở về với cái lưng đau

Ai là người xoa bóp nó bằng dầu bạc hà?

Ai ngồi chờ ngươi trước sân?

Tôi không trả lời được.

Tôi chưa từng khóc kể từ khi làm Chacal, thực ra, tôi không hề nhớ anh ta đã từng khóc bất cứ lần nào trong đời, kể từ những bài tập bóng hông đầu tiên. Ở nơi mà anh ta lớn lên, anh ta sẽ chết nếu anh khóc. Tôi chỉ biết anh ta thậm chí không thể bắt cặp mắt mình khóc được nữa. Anh ta đã đánh bật nó ra khỏi mắt mình. Nhưng chúng vẫn biết cái cảm giác sắp khóc, khi nước quanh con ngươi dâng lên nóng lên và nằng nặng. Quỷ bắt mày đi, – tôi nghĩ, – trấn tĩnh lại nào. Tôi nhìn trân trân vào cánh hoa phong lữ. Nó dài hơn những cánh hoa khác, ngỏng lên trên cái cuống cong queo, nhìn hệt như con cá ngựa.

– Ngươi muốn kể cho ta điều gì đó, – Koh nói. Hay chỉ là tôi nghĩ bà ta nói? Tập trung vào nào.

Tôi ngồi thẳng người lên và tiện thể liếc nhìn lên bà ta một cái. Nếu có thể chụp được ảnh bà ta lúc này, tôi cá rằng khuôn mặt vẫn bình thản như lúc trước. Nhưng ở ngoài, dường như bà ta đang nhìn tôi với vẻ thích thú, với sự thông cảm và gần như với một nụ cười. Dường như tất cả đều nằm trong đôi mắt. Hoặc trong dáng đầu hơi nghiêng xuống. Hoặc bà ta đang cố ý tiết ra pheromone (Hoóc-môn tỏa mùi kích thích phản ứng của đông loại)…

– Còn điều gì đó khác bên trong ngươi, – bà ta nói.

Tôi cắn môi chặt hơn. Tùy người, ở trên tôi, nói – tôi ra hiệu. Tôi ngước mắt lên. Bà ta đang nhìn thẳng vào tôi. Như tôi đã nói, nhìn vào mắt nhau là cả một vấn đề đấy. Giống như trong phim Viên cảnh sát và một quý ông, khi Louis Gossett Jr. nói: “Đừng có nhìn chằm chằm vào tôi, anh lính mới! Nhìn lảng đi!”. Tôi lại nhìn xuống.

– Câu trả lời là cháu chắt chút chít của câu hỏi đấy, – Koh nói. Tôi đoán ý bà ta là nếu tôi không nói cho bà ta biết điều gì thì sao tôi lại mong bà ta đếm mặt trời giúp tôi.

– Tôi, dưới chân người, không giỏi hùng biện, nhưng tôi rất muốn thấy những mặt trời đó được đếm, – tôi đáp. Nghĩa là “tôi không muốn chuyện phiếm nhiều, tôi muốn bà bắt đầu chơi ngay đi cho được việc”.

– Ta qua nghèo túng để có thể đền đáp lại món quà của ngươi, – bà ta nói. Đại khái là “Hãy cầm lại những cái lông chết tiệt và mọi thứ khác của ngươi rồi cuốn xéo khỏi quán của ta đi”. Bà ta nhìn sang bên tay trái mình, tức là hướng tây, hướng của quá khứ. Tỏ ý: cuộc nói chuyện này là quá khứ, chúng ta xong việc rồi.

– Những mặt trời tôi muốn đếm không nhiều, và nó chiếu sáng cả người nữa, – tôi nói. Nghĩa là “Bà sắp toi rồi đấy, đồ phù thủy xấu xí. Số ngày còn lại của bà chỉ đếm trên đầu ngón tay nữa thôi, và nếu bà không tiếp tục màn biểu diễn này, chung ta sẽ cùng…”

Thế này chẳng khác gì cảnh ở lớp hai, khi thằng nào đó chộp lấy cái bút chì trên bàn sau lưng anh. Tôi nhìn lên. Bà ta cũng nhìn, nhưng lần này rất khác.

Những người luyện thú nói sự khác nhau giữa chó nhà và chó sói là chó nhà nhìn vào anh còn chó sói nhìn thấu anh. Con chó nhà nhìn vào mắt anh và nhận biết được cảm giác của anh. Nhưng bà ta không nhìn vào mắt tôi. Bà ta nhìn xuyên qua tôi.

Bà ta đe dọa mình đây, – tôi nghĩ. Nên biến khỏi đây thôi. Tôi bất giác nhổm người lên, chuẩn bị đứng dậy. Nhưng thay vì nhổm lên như bình thường, trọng tâm cơ thể tôi lại lắc lư nặng nhọc, óc a óc ách như cái bể bơm hơi đựng đầy bùn nhớt. Hai chân tôi đờ ra, tê dại, đau nhói. Chết rồi, toi rồi, – tôi nghĩ. Bà ta sắp… hay là mình lao vào tóm lấy cổ bà ta mà… không. Biết đâu có lính gác đang theo dõi. Cứ bình tĩnh mà ra về, có vội vã nhưng cũng đường hoàng. Tôi duỗi hai cẳng chân tê dừ ra, thật chậm rãi như thể tránh làm rung chuông báo động. Tôi nhổm người về phía trước, chống hai tay xuống sàn. Nào, đếm đến 3 nhé. Một, ha…

Koh hét lên một tiếng.

Hai mắt tôi bị hút chặt vào khuôn mặt bà ta. Nó đã dãn ra thành một nụ cười đáng sợ. Màng cứng nổi rõ quanh mống mắt và những miếng ngọc lục bảo khảm răng sáng lóe lên như một chuỗi mắt kép của côn trùng. Tiếng hét của bà ta lên bổng xuống trầm, chói tai như trong phim kinh dị, thể hiện sự sợ hãi và đau đớn cực độ, tiếng hét của người cảm thấy răng nanh của con báo đang cắm phập vào gáy mình. Tôi giật mình co người về vị trí cũ, hay đúng hơn tôi nghĩ là mình đã làm vậy, nhưng thực ra chẳng có chuyển động nào hết. Tôi nhận thấy mình vẫn đang ngồi nguyên tư thế như lúc trước. Tôi bị tê liệt.

Cảnh sát, họ được luyện cách quát “đứng im!” với uy lực đủ để người khác đứng sững lại. Nhưng vấn đề là họ không đứng lại lâu. Còn với tôi thì khác. Một sự kết hợp nào đó giữa chất độc trong món sô-cô-la và tiếng hét đã khiến tôi cứng đờ bất động, một phản ứng tự nhiên thường thấy ở những con thú có túi khi chúng nhìn thấy kẻ săn mồi và chưa thấy lối nào để chạy thoát.

– Hain chama (cầm lấy), – Koh nói.

Bà ta ngả người ra phía trước và chìa cánh tay mảnh khảnh ra. Bà ta cầm một hạt cây t’zee bằng ngón trỏ và ngón giữa, như lối người ta cầm quân cờ vây.

Bàn tay phải nắm lại của tôi hiện ra trước mắt tôi. Tôi dõi theo nó từ từ chìa về phía bàn tay Koh và xòe ra, lòng bàn tay ngửa lên trên. Cái hạt cây rơi xuống. Nó nắm lại và quay về chỗ của mình trên đùi tôi. Tôi nhìn lên. Hai trong số đốt sống cổ tôi kêu răng rắc thành tiếng.

Tôi ngồi lại tư thế cũ. Tôi thấy chóng mặt. Tôi nhìn xuống, rồi lại ngước lên. Nét mặt bà ta đã quay về trạng thái bình thản mặc định. Lạ sao, tôi không hề cảm thấy bực bội. Tôi chỉ thấy ỉu xìu xuống.

– Khi người ta tê dại, người ta có thể làm rất nhiều trò với người, – Koh nói. Ý bà ta là nếu muốn, bà ta có thể khiến tôi tê liệt lần nữa, rồi tra tấn tôi và bắt tôi khai ra mọi điều bà ta muốn biết. Có khối cách.

Tôi chưa từng nghĩ mình là người đặc biệt dũng cảm. Song… có lẽ do dây thần kinh của Chacal lại vào cuộc, hoặc có lẽ do tôi đã quá mệt nên tôi chỉ buông thõng hai từ:

– Bin el. (Bắt đầu đi).

Tôi nghĩ mình đã nói được câu đó với vẻ khá bất cần. Tôi lại thấy cái cảm giác gan lỳ, hay sôi sục, hay ngoan cường, hay gì gì đó, quay trở lại. Cứ việc lao vào đi, đồ phù thủy.

Bà ta không hề chớp mắt. Nét mặt bà ta có cái vẻ không thần sắc đến lạ kỳ, nói thế nào nhỉ, như Kenny Tran khi hắn vét sạch túi tôi trong trận chung kết giải Hold ‘Em năm 2010 tại casino Commerce.

– Actan cha ui alal, – cuối cùng, bà ta cũng lên tiếng. Câu ấy đại khái có nghĩa là “hãy cố thắng ván này”.

Hừ, có thể lắm, – tôi nghĩ. Và ngay trước khi tôi kịp có ý nghĩ đó, mọi thứ trong đầu tôi đã đảo lộn và sự thất vọng tràn lên. Hay ho rồi đây, – tôi nghĩ, – mình đã ngồi trong căn phòng này cả mấy tiếng đồng hồ và… quỷ tha ma bắt nó đi, mình sẽ đi được đến đâu kia chứ? Không ai tránh được ngày tận thế. Và tôi cũng chẳng trốn được đi đâu cho thoát cái khối u trong đầu. Tôi sẽ làm gì đây? Rình mò quanh Teotihuacán và tìm cách xoáy món thuốc chăng? Sang nửa Đỏ và hối lộ để xin một ít chăng? Không được đâu. Tôi sẽ bị lính nhà Bướm Đuôi Nhạn tóm cổ và pha thành món thịt băm. Chết tiệt. Có điều gì đó mách bảo tôi rằng – tôi ghét phải thừa nhận cái câu chuyện cũ rích về sự linh tính này, nhưng thực sự, thực sự có điều gì đó mách bảo tôi rằng – đó sẽ là kết cục mà tôi dễ nhận được nhất.

– Người đang bị đầy ải ở đây, – tôi nói, – và tôi đến để giúp người. Tôi biết những điều mà người không bao giờ có thể tự tìm ra. Tôi biết thành phố Lưỡi Dao chỉ còn lại rất ít mặt trời nữa thôi.

– Vậy tên ngươi là gì? – bà ta hỏi.

Tôi hơi rùng mình, và, vì một lý do nào đó, có lẽ do giọng nói của bà ta, tôi nghĩ bà ta nhìn thấy cả gai ốc đang sởn lên trên cánh tay tôi. Suốt thời gian ở đây, tôi đã tiếp xúc với những kẻ lúc nào cũng dùng đến cái mà họ nghĩ là phép mầu. Nhưng tôi vẫn chưa gặp bất cứ thứ gì thực sự đáng gọi là phép mầu – trừ cờ Hiến tế, cái đó không tính – hay ngoại cảm, hay thậm chí chỉ là linh tính hay không trùng hợp ngẫu nhiên khó giải thích. Và tôi tin chắc rằng việc Koh làm tôi bất động không thể là siêu nhiên được. Nhưng nó đủ để khiến tôi thấy rờn rợn.

Bình tĩnh nào, Jed, – tôi tự nhủ với mình không biết là lần thứ bao nhiêu, – bà ta không phải phù thủy đâu. Tôi liếc nhìn bà ta. Nếu bà ta có ngạc nhiên thì điều ấy cũng không được thể hiện trên khuôn mặt. Cặp mắt bà ta xoi mói khắp người tôi. Tôi lại nhìn xuống đất.

Thôi, – tôi nghĩ, – cứ đổ mẹ cái con súc sắc này đi.

– Caba ten Joachim Carlos Xul Mixoc DeLanda, – tôi trả lời. Cái tên tiếng Tây Ban Nha nói ra ở đây nghe thật kì cục. Tôi nghĩ mình nhìn thấy một tia sáng ánh lên trong sâu thẳm cặp mắt Koh, chắc tôi đã thu hút được sự chú ý của bà ta.

– Mặt trời nào chiếu sáng lễ đặt tên của ngươi?

– Khỉ Rú 11, Trắng 4, unial thứ năm, tun thứ nhất, k’atun mười tám của b’ak’tun mười bà.

Im lặng, nhưng không lâu như các bạn nghĩ.

– Mẹ ngươi là ai? – bà ta hỏi tiếp, – Và cha ngươi là ai?

– Mẹ tôi là Flor Tizac Maria Mixoc DeLanda, người Ch’olan, còn cha tôi là Bernardo Koyi Xul Simon DeLanda, người T’ozil.

– Vậy ai là người khói, người bảo trợ cho ngươi?

Tôi cho bà ta biết tên hai vị thánh bảo trợ của Jed: Santa Theresa và Maximón. Tôi đọc tên ông ta theo tiếng Maya là Mam.

– Người rời sân trước nhà mình khi nào?

– Imix 13, Mol 14, unial thứ năm, tun mười một, k’atun mười tám của b’ak’tun mười ba, – tức là ngày mùng 2 tháng 9 năm 1984, ngày cha mẹ tôi đưa tôi đến bệnh viện Xacan.

Im lặng.

Hừ, tốt lắm, Jed, – tôi nghĩ, – đây là lần thứ hai trong chuyến đi này mày bầy hết ruột gan cho người khác xem đấy. Nhưng một miếng to có độc trộn với một mẩu nhỏ thuốc “nói thật” khiến tôi khó lòng mà giữ mình kín đáo được…

– Ngươi đến đây bằng cách nào? – Koh hỏi.

– Tôi đến đây trên một thác ánh sáng, – tôi đáp, – đúng hơn, tôi chính là thác ánh sáng đó.

Mình đang luyên thuyên cái khỉ gió gì thế này, – tôi nghĩ, – phép ẩn dụ ấy không đạt rồi. Ôi thôi, kệ nó đi.

– Vậy.

Ở thời gian của ngươi

Con cháu chúng ta không được no đủ?

Người khói của chúng ta không được no đủ?

Trong giọng nói của Koh có vẻ gì đó – hừm, tôi hơi ngần ngại nói đến điều này vì nó làm bà ta thành kẻ yếu đuối, mà, chí ít là đến lúc này, bà ta tỏ ra là hoàn toàn ngược lại, và thực sự, được ngồi cùng bà ta trong một căn phòng khiến tôi thấy vững dạ lạ lùng, như thể đang cầm trong tay một con dao rựa sắc hay một khẩu súng nòng lớn – nhưng đúng là giọng bà ta buồn rầu lạ thường, như thể bà ta đã chứng kiến nhiều cảnh ngộ trên đời hơn bất cứ người nào, chứ đừng nói là những người ở tầm tuổi bà ta, như thể bà ta đã chứng kiến hàng triệu người rơi từ sự vui sướng của trẻ thơ xuống nỗi thất vọng chưa từng thấy, và cuối cùng, xuống tận nỗi sợ hãi hoảng loạn.

– Người ở thời các ngươi còn hát tên của họ không?

Còn xức nước thơm cho xương cốt họ không?

Những người khói của chúng ta còn được cúng máu nô lệ không?

Và họ còn bảo vệ ngươi không?

– Sự thật là những người cùng thời tôi đã ít nhiều quên đi nghĩa vụ của mình, – tôi đáp. Những lời này khi nói ra nghe cứ khập khà khập khễnh, thậm chí khập khễnh hơn cả khi nói bằng tiếng Anh. – Nhưng một vài con cháu người vẫn dâng cúng cho người khói trên bàn thờ và trên đỉnh núi. Tuy không còn nhớ tên tuổi ai nhưng họ vẫn thờ cúng tất cả.

– Vậy họ cúng bằng gì?

À…, – tôi nghĩ, – bằng gì thì cũng không phải bằng người.

– Đa phần họ trở nên nghèo túng, – tôi đáp.

– Nghĩa là họ để tổ tiên mình đói khát.

– Họ làm những gì có thể.

– Vậy là thế giới của người đang thối rữa dưới chân người.

Phải đấy, – tôi nghĩ bụng, – thế kỷ hai mốt đúng là đang sụp đổ. Bỏ lại người nuôi chim ưng, lê lết tới Bethlehem (Thành phố Israel, mục tiêu của những cuộc thánh chiến thời Trung Cổ. Câu này ý nói người ta bỏ lại thú vui săn bắn thời bình để lao vào chiến tranh như các hiệp sĩ Thập Tự Chinh), mọi sự tồi tệ đên mức thứ tồi tệ nhất cũng không bị kết tội.

– Có lẽ thế – tôi đáp, – nhưng không nhất thiết phải như thế.

– Vậy tại sao ngươi lại ở đây? Ngươi đi theo đường của ai?

Ý bà là tôi làm việc cho ai. Tôi định trả lời là Sọ Đá Quý 2 nhưng lại nghĩ sao phải lặp lại tất cả những chuyện đó một lần nữa, thế là tôi đáp: “Marena Park”.

– Vì sao ahau của thành Ix, Maran Ah Pok, quyết định phái ngươi đến đây?

– Chúng tôi nhìn thấy người trong một cuốn sách, – tôi đáp, – một cuốn sách ghi lại ván cờ Hiến tế mà người đã chơi vào ngày Chúa tể 9, Sum họp 13, tồn tại được đến k’atun của chúng tôi. Chúng tôi đọc nó vào ngày Báo Đốm 2, Xương vàng 2, k’atun mười chín, b’ak’tun mười ba.

– Hai mặt trời trước khi phù thủy reo rắc lửa từ đá vỏ chai?

– Phải.

– Và đó là ngày ahau của thành Ix ra lệnh cho ngươi tới đây?

– Không, nhiều ngày sau đó, -tôi đáp. Tôi nói thêm rằng chính tôi đã xin Marena cử tôi đi.

– Nhưng bà ta đã cho ngươi xem cuốn sách vừa kịp lúc.

Tôi đáp rằng chẳng hề vừa kịp bởi khi đó đã quá muộn để trở tay và hàng ngàn người đã chết.

– Nhưng vừa kịp để ngươi biết rằng mặt trời không lành sắp tới.

– Phải.

– Vậy rất có thể ahau của thành Ix, Maran Ah Pok, đã có ý định gửi ngươi đến đây trước khi cho ngươi xem cuốn sách.

– Tôi đã phải van xin bà ta.

– Ngươi mất bao lâu để cầu xin?

Tôi nhớ lại và trả lời: “không lâu lắm”. Thực ra, tôi nghĩ chỉ khoảng một phút rưỡi.

– Vậy có thể đó chính là câu trả lời cho ngươi.

Tôi ngồi lại và suy nghĩ. Mày biết mà, Jed, – tôi tự nhủ, – bà ta có thể đúng lắm chứ. Mày là thằng ngu. Mày cố tỏ ra thông minh và thạo đời, nhưng thực ra mày chỉ là loại ngờ nghệch cả tin. Có lẽ Marena, và Lindsay Warren, và Michael Mặt Dái, và Taro, và tất cả lũ ấy đã lợi dụng mày ngay từ ngày đầu tiên. Có lẽ Sic chưa từng muốn quay về đây. Đó chỉ là mánh khóe để kích cho mày ghen tị thôi. Thảo nào tiếng Ch’olan của hắn chối đến vậy, hắn biết là hắn chẳng cần đến nó.

Tuy vậy, tôi không thực lòng muốn tin chuyện đó. Tôi khẽ lắc đầu – không quá lộ liễu, tôi hi vọng thế – và cố suy nghĩ thật tỉnh táo.

– Và ngươi muốn gặp người đếm mặt trời đã chơi ván cờ đó.

Tôi nói rằng chúng tôi không thực sự hiểu điều gì sẽ xảy ra vào ngày đó.

– Vào ngày đó, bốn trăm đứa trẻ sẽ cho chúng ta biết chúng muốn gì, – Koh nói.

Im lặng. Đừng nói gì cả, – tôi tự nhủ, – cứ chờ đã.

Nhưng Koh cũng không nói gì thêm. Không bằng những người bị thẩm vấn với độ rắn mặt trung bình, cuối cùng, tôi không chịu đựng được.

– Cuốn sách nói rằng sẽ có nhiều hơn trước đây, nhưng vẫn không có ai cả.

– Đúng thế, – Koh ra hiệu.

– Và chúng sẽ đòi thứ gì đó, phải không?

– Chúng sẽ đòi thứ mà ta không thể cho.

Im lặng.

Thôi được rồi, – tôi nghĩ, – mình nên hỏi thẳng thì hơn.

– Con Ma Róc Thịt đó là ai?

Ta không biết – Koh ra hiệu.

– “Tất cả mặt trời của những lễ hội và tất cả mặt trời của sự khổ đau” nghĩa là sao?

– Mọi sinh vật sống có nhiều ngày khổ đau hơn lễ hội.

– Nghe cũng hợp lý, – tôi ra hiệu và hỏi tiếp: – Vậy nơi dành cho sự phản bội là gì?

– Đó là những ngày không tên, – Koh đáp. Theo nghĩa đen, câu ấy ám chỉ năm ngày nhuận cuối cùng không được đặt tên trong năm dương lịch Maya. Nhưng trong ngữ cảnh này, cần hiểu là “một nơi đồng không mông quạnh”, chỉ có điều là về mặt thời gian chứ không phải địa điểm. Tức là, nó không xảy ra trong cùng một dòng thời gian – hay cùng một chiều thời gian – với tất cả các sự kiện khác. Một dạng thời gian không được tính, giống như những khoảng thời gian chết trong một trận bóng.

Im lặng.

– Và lấy hai từ mười hai thì được Mèo Rừng 1? – tôi hỏi.

– Không, đó là một việc Mèo Rừng 1 đã làm, – Koh đáp.

– Tôi không hiểu.

– Mèo Rừng 1 cũng không giải thích rõ.

– Người đã nhìn thấy gì vào mặt trời đó?

– Ta không nhìn thấy gì cả, – bà ta đáp, – ta nghe được những điều đó từ Mèo Rừng 1.

– Người đã đấu ván cờ đó cùng Mèo Rừng 1? – tôi hỏi. Như tôi đã từng nhắc đến, Mèo Rừng 1 là ông tổ của thị tộc Mèo Rừng, người đã khai phá mạch nước ngọt của thành Ix và bóc lớp thịt gỗ khỏi những người câm bị dìm dưới nước vào những ngày tồn tại cuối cùng của mặt trời thứ ba.

Koh ra hiệu “phải”.

– Lúc đó ông ta ở trong điện thờ trên kim tự tháp của nhà Mèo Rừng phải không?

– Họ đã đưa ông ta tới một cung điện bí mật, – Koh đáp.

Ý bà ta là họ đã đưa xác ướp của ông ta từ trên đỉnh kim tự tháp xuống để đấu cùng bà ta. Dĩ nhiên, ông ta phải nói năng và di chuyển quân cờ thông qua một người thứ ba.

Hừ, đáng đời mày vì không đoán ra được điều này, – tôi tự rủa. Nghĩ lại thì quả là nhân vật thứ hai trong cuốn Thư tịch nhìn khá kỳ quặc. Tôi nghĩ tôi đã kể điều này, hoặc là chưa: xác ướp là cả một vấn đề trọng đại ở xứ này. Nhưng không như các xác ướp Ai Cập, chúng thường chỉ là một cái xác giả bằng gỗ hoặc bột ngô, đắp quanh một cái sọ và một vài chứ không phải tất cả các khúc của bộ xương. Thông thường, chúng được đeo một chiếc mặt nạ làm từ da thuộc của chính người quá cố, và đôi khi còn đeo thêm nhiều mặt nạ khác bên ngoài chiếc mặt nạ đó. Chúng được quấn đủ thứ phẩm phục và dây rợ. Và khác với xác ướp Ai Cập, chúng không phải nằm trong các quan tài. Chúng ngồi dự các bữa tiệc và các cuộc hội họp, được mang theo đến các lễ hội và thậm chí tham gia các trận đánh. Chúng đi khắp nơi, và dĩ nhiên, phát biểu rất nhiều, thông qua các người trung gian.

– Người, ở trên tôi, có thể hạ cố kể thêm một vài chi tiết? – tôi ngỏ lời.

– Không có gì để kể thêm về ván cờ. Cuốn sách của ngươi đã đầy đủ hết.

– Nhưng đôi khi người ta có thể dụ con mồi theo đường cũ một lần nữa, – tôi nói. Đó là một câu ngạn ngữ, nhưng ý của tôi là: “Người có thể chơi lại đoạn cuối của ván cờ đó và đoán lại một lần nữa”. Cách làm này cũng tương tự như trong cờ vua, anh có thể chơi lại từ nước ngay trước nước cuối cùng quyết định phần thắng để thử xem bên thua có thể lật ngược thế cờ.

– Điều đó không thể thực hiện được, – Koh đáp, – Mèo Rừng 1 vẫn chơi với những quả bóng sống. – Tôi nghĩ mình đã nhắc đến điều này rồi, “những quả bóng” cũng có thể hiểu là “những quân cờ”. – Có lẽ không ai có thể chơi một ván cờ lớn đến thế lần nữa. Kết thúc.

Chết tiệt, – tôi nghĩ. Hình như ý bà ta là nghệ thuật chơi cờ Hiến tế đang dần thất truyền. Và ở đây, khi ai đó nói “kết thúc” nghĩa là anh đừng hòng moi thêm được tí thông tin nào từ họ, dù anh có tra tấn họ đi chăng nữa. Mặc dù anh có thể cứ tra tấn họ như một nghi thức xã giao.

Koh nhìn sang cây hương đồng hồ. Nó đã cháy hết. Cuộc tiếp kiến coi như chấm dứt. Mẹ kiếp. Tôi cứ nghĩ thời xưa người ta thong dong lắm. Thế mà bấy giờ tôi phải cố nấn ná để được ngồi thêm vài phút với bà ta, hệt như một tay nhà báo hạng hai phỏng vấn Madonna. Koh quay người lại, mắt nhìn qua đầu tôi, theo đúng phép tắc. Mẹ kiếp. Mẹ kiếp mẹ kiếp mẹ kiếp. Các bạn hẳn cũng nghĩ chuyện này chí ít cũng phải có tí gì hay ho chứ. Có phải ngày nào trong cả một k’atun người ta cũng gặp được Buck Rogers (Nhân vật chính của một loạt truyện tranh vui về du hành vũ trụ) đâu, song tôi đoán bà ta không thể làm gì ngay lúc này. Thời gian Im lặng bắt đầu, có hàng đống người xin diện kiến giàu có hơn đang xếp hàng ngoài kia còn hai Giáo hội lớn thì đang lăm le tiêu diệt đền thờ Rắn Chuông, thời gian thực sự là…

Được rồi. Bình tĩnh lại đi. Thử lại lần nữa.

– Tôi biết chính xác thời điểm Người Nuốt ánh Sáng tấn công mặt trời sau chín ngày nữa, – tôi nói, – nó sẽ là tám trăm lần hai mươi cộng chín lần hai mươi cộng một nhịp sau tia sáng mặt trời đầu tiên.

Như tôi đã từng đề cập, mọi người đếm mặt trời ở Mesoamerica đều biết sớm ngày hôm đó sẽ có hiện tượng nhật thực. Nhưng kể cả những người thông thái nhất, những người đứng đầu giới thiên văn học ở Teotihucán, ở Ix, lẫn ở Palenque đều không dự đoán được chính xác thời điểm. Họ thậm chí không chắc đó là nhật thực toàn phần hay một phần. Vì để biết điều đó, người ta cần kính viễn vọng, phép tích phân và vi phân.

– Người nào biết thì vẫn biết, – Koh đáp. Đó là một kiểu thành ngữ không dịch được, nhưng về cơ bản nó có nghĩa là “chúng ta phải chờ xem thôi, phải thế không?”, ý rằng hãy cho ta biết điều gì mà ta có thể dùng ngay lúc này đi. Bà ta có lý.

– Mặt trời sẽ bị che khuất trong mười chín lần hai mươi và tám nhịp, – tôi nói, – tiếp đó, sau bốn mươi mốt lần hai mươi và mười tám nhịp, nó sẽ trở lại như trước.

Im lặng. Bà ta không ném tôi ra cửa nên tôi cứ nói tiếp.

– Chỉ có điều, thực ra không có gì nuốt mặt trời cả. Chỉ là Nữ thần Thỏ Vấy Máu đi vào giữa mặt trời và trái đất (Koh gật đầu thờ ơ, ý là bà ta biết điều đó rồi) và Thỏ Vấy Máu là một quả cầu với một mặt luôn quay về phía chúng ta, còn mặt trời là một quả cầu bốc cháy, giống như quả bóng hông chơi ban đêm; Người Chế Ngự Mặt Trời và Người Báo Tin Của Mặt Trời (Ý nói sao Kim, ngôi sao vừa được gọi là sao Hôm vừa được gọi là sao Mai) chỉ là một (bà ta cũng gật đầu khi nghe điều này) và nó cũng là một quả cầu, và tầng thứ không (tức Trái Đất) cũng là một quả cầu, nó giữ chúng ta trên mình nó như một hòn đá nam châm lớn hút các hòn nhỏ. Những đốm lửa xì gà như Iztamna, Ixchel và Hunaphu 7 cũng chỉ là những quả cầu, tất cả đều lao quanh mặt trời.

– Nhưng chúng có rơi xuống đâu, – bà ta nói.

A ha, – tôi reo thầm,- mặt nạ rơi xuống rồi. Nữ Thần Băng Giá té ra cũng có quan tâm đến vài điều.

– Chúng đang rơi, – tôi đáp, – nhưng chúng còn phải rơi tiếp một khoảng cách rất xa nữa mới chạm được vào mặt trời. Chúng sẽ tiếp tục rơi thêm bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm lần của bốn trăm b’ak’tun nữa.

Mong sao điều này làm bà ta sửng sốt, – tôi nghĩ, – quân bài đẹp nhất của mình rồi đây.

Tôi vươn người ra phía trước – rất trái phép lịch sự – và với lấy một cái bát tròn, nông trên chiếc mâm đựng đồ đất nung đặt gần bếp lò. Tôi kéo cổ áo choàng lên miệng, dùng răng căn đứt một viên đá tròn màu xám, dứt dứt sợi dây buộc và thả nó vào cái bát. Tôi cầm bát lên và xoay viên đá quanh bát. Nó hơi lẩy bẩy nhưng tôi cứ tiếp tục bài diễn thuyết.

– Phần trung tâm của chiếc bát giống như mặt trời, – tôi nói, – và chúng ta đang đứng ở một bên của viên đá. Khi chúng ta quay quanh như thế này, chúng ta tưởng mặt trời chuyển động. Nhưng thực ra chính chúng ta chuyển động.

– Vậy ngươi, bên cạnh ta, nói rằng mặt trời nằm ở đáy chiếc bát ngọc lam?

– Không, không có chiếc bát nào cả. Và không có các tầng trời. Bầu trời chỉ là gió trên cao thôi. Và thực ra, chúng ta không quay quanh nó theo một đường tròn hoàn toàn. Chúng ta chuyển động theo hình giống như quả trứng ngỗng.

Tôi lại ngả người ra đằng trước – mất lịch sự quá thể, nhưng tôi hy vọng chúng tôi đã qua giai đoạn phải giữ gìn phép lịch sự đến thế – và dùng cẳng tay gạt một nhát đống cánh hoa sang bên cạnh, dẹp được một khoảng trống hình lưỡi liềm cụt trên tấm thảm cói trắng bện rất đẹp.

– Vòng tròn nhỏ này là Mặt Trời Thứ Tư, – tôi nói, – quả bóng này là Người Chế Ngự Mặt Trời, cũng là Người Báo Tin Của Mặt Trời, quanh xung quanh mặt trời theo vòng tròn rộng hơn này. Tôi phải với người ra lấy thêm bồ hóng đến sáu lần trước khi hoàn thành bức vẽ.

Dĩ nhiên, bản phác họa của tôi rất sơ sài, nhưng vẫn có thể hiểu được.

– Tầng thứ không nằm ở đây, – tôi vừa nói vừa vẽ một ký tự hình con mắt (hoặc con hàu) lên phía ngoài cùng bên trái. – Còn đây là điểm xa nhất của Người Chế Ngự Mặt Trời. – Tôi vẽ một ký tự biểu hiện sao Hôm tại điểm 11 giờ trên hình tròn lớn và đánh dấu chấm bên cạnh.

Tôi tưởng Koh định nói gì đó, nhưng bà ta không nói gì.

– Đây là vị trí của Người Chế Ngự Mặt Trời vào đêm cuối cùng, – tôi vẽ một ký tự phía dưới, bên phải hình thứ nhất và đánh hai dấu chấm bên cạnh.

Koh nhìn chăm chăm vào bức vẽ. Bà ta chẳng nói câu gì. Hình như tôi đã nhắc đến ở đâu đó rằng đúng là lịch của người Maya nổi tiếng chính xác, nó tính số ngày theo mặt trời chính xác hơn cả lịch Greogry khi chưa chỉnh sửa. Nhưng họ chưa có thuyết nhật tâm, tuy qua cách Koh tiếp thu vấn đề này, tôi đoán bà ta và những nhà thiên văn Maya giỏi nhất cũng có ý niệm mơ hồ về nó.

– Và điểm thứ ba này là vị trí của quả cầu khi xuất hiện vào buổi sáng đầu tiên, khi nó được gọi là Người Báo Tin Mặt Trời, – tôi vừa nói vừa di chuyển nó ngược chiều kim đồng hồ. – Còn đây là vị trí xa nhất của nó, vị trí vào buổi sáng cuối cùng. Sau đó, nó sẽ bị khuất sau mặt trời trong vòng năm mươi ngày, rồi lại xuất hiện lại ở đây, với tư cách là Người Chế Ngự Mặt Trời. Tổng cộng là mười một nhân hai mươi cộng bốn ngày và chín mươi mốt nhân hai mươi cộng năm nhịp. – Tôi vẽ ký tự thể hiện số 6 cạnh hình vẽ cuối cùng. Tôi bỏ qua các điểm giao hội với các hành tinh khác. Sao phải dài dòng chứ?

Tôi dừng lại.

Khoảng thời gian dừng kéo dài mãi.

Ngon rồi, – tôi nghĩ. Với đám người này, nếu có thứ gì anh luôn có thể trông cậy thì đó chính là một nền tảng kiến thức vững chắc về môn thiên văn bằng mắt thường. Dù gì bà ta cũng là một người đếm mặt trời. Và người đếm mặt trời nào cũng muốn biết cái gì đó hơn người thường. Ngay cả khi sự tiến bộ không được tán thành – tức là những thứ mà người da trắng xưa kia coi là sự tiến bộ – thì vẫn cứ có vô số sự tiến bộ nảy sinh từ sự ganh đua, một cách tự nhiên và không thể ngăn cản được. Người đếm mặt trời là những người lao động tích cực và họ luôn tìm tòi những điều mới. Không phải chỉ để dự báo được cơn mưa đầu mùa chính xác hơn đồng nghiệp ở thành phố bên cạnh, ví dụ thế, mà để trao đổi với nhau. Chẳng hạn, trong trường hợp của Koh, bà ta cần chia sẻ những hiểu biết kiểu như thế này với các nữ tư tế khác của Nhện Dệt Cầu Vàng để tất cả cùng sử dụng sự chính xác nhỉnh hơn một chút làm quân bài thương lượng trong cuộc xích mích với hai Giáo hội lớn.

Cuối cùng, Koh lên tiếng:

– Vậy ý ngươi là việc Lợn Cỏ 2 bước ra khỏi đám rước và quay về hang động của mình trên đường trắng cũng là hiện tượng tương tự? (và ta đang nói về sao Hỏa).

– Ông ta không quay về đâu cả, – tôi đáp, – chỉ là chúng ta thấy thế, bởi mặt đất dưới chân chúng ta chuyển động. Đúng là Lợn Cỏ 2 di chuyển tương tự như Người Báo Tin Mặt Trời. Nhưng trong khoảng thời gian dài hơn vì nó ở xa mặt trời hơn chúng ta.

– Và Người Báo Tin Mặt Trời thì ở gần hơn?

– Người Báo Tin Mặt Trời ở gần hơn.

– Và ngươi nói Mặt trời lớn hơn tầng thứ không?

– Lớn hơn bốn trăm của bốn trăm lần, – tôi đáp, – và nếu người đi bộ đến mặt trời, tuy chuyện đó là không thể, ta hãy nói là người bay đến đó với tốc độ bằng tốc độ đi bộ, thì sẽ mất chín trăm lần bốn trăm b’ak’tun.

Koh nhìn vào tấm biểu đồ, tính toán. Bà ta đang trải qua cả một cuộc cách mạng đây, – tôi nghĩ. Giống như Copernicus (Nhà thiên văn học đầu tiên đưa ra học thuyết nhật tâm – mặt trời là trung tâm của hệ mặt trời. Warmia là thành phố nơi ông sống, làm việc và qua đời) ở Warmia. Giống Tycho Brahe (Nhà thiên văn học người Đan Mạch thể kỷ 16, ông ta bị cụt mất một phần mũi trong một trận đấu kiếm), rụng mất mũi chỉ vì chõ nó vào không gian. Giống Johannes Kepler (Nhà thiên văn học nổi tiếng với định luật về chuyển động thiên thể). Giống Gallileo Lập Dị. Chờ đấy, cho đến khi tôi chỉ cho bà thuyết tương đối rộng, – tôi nghĩ, – lúc ấy bà sẽ đập nát cái bàn tính của mình. e = babes3 (Đây là một cách nói nhại công thức e = mc2 trong thuyết tương đối hẹp, vì vậy, người dịch xin giữ nguyên bản).

– Vậy là những người ở thời gian của ngươi biết mọi thứ, – cuối cùng bà ta cũng nói. Tôi phải ghìm một cái giật mình, vì bà ta đã im lặng quá lâu.

– Không hẳn là tất cả mọi thứ, – tôi ra tín hiệu. – Nhưng họ đang… họ sẽ nghiên cứu để biết hết mọi thứ.

– Và tất cả họ đều là những nhà quý tộc đầy quyền lực? (nghĩa là: có phải tất cả họ đều giàu có và đang cai trị).

– Không, rất nhiều trong số họ là người ở nhà tròn. Tuy nhiên, đa số họ giàu hơn nhiều so với những người ở nhà tròn thời này. Thức ăn nhiều đến mức ngay cả những kẻ không có bếp lò cũng béo. Hầu hết người ta sống được ngoài ba k’atun. Chúng tôi đi trên không trong những con thuyền biết bay khổng lồ bằng đồng. Chúng tôi có những cây đuốc lạnh chạy được một trăm lần hai mươi đêm và những thứ vũ khí có thể giết chết được hàng trăm lần hai mươi người ở khoảng cách một trăm lần hai mươi ngày đường. Chúng tôi nói chuyện và nhìn thấy mặt nhau khi ở cách nhau rất xa, qua những dải ánh sáng vô hình. Từ trước khi tôi ra đời, mười hai người đã lên được quả cầu mặt trăng trên một chiếc thuyền. Chúng tôi đông tới bốn trăm lần hai mươi của bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi bốn trăm lần hai mươi người. Chúng tôi nhìn thấy bên trong người mình mà không phải mổ ra. Chúng tôi làm ra những vật còn thông minh hơn cả chúng tôi. Chúng tôi lặn xuống đáy biển mặn, ở đó nhiều ngày và trở về nguyên vẹn.

– Nhưng các ngươi đã quên những điều quan trọng nhất, Koh nói, – vì vậy các ngươi đến đây. Đúng chứ?

Tôi không trả lời ngay. Hừ, sao cũng được. Tôi ra hiệu “phải”.

– Vì các ngươi, ở thời của các ngươi, đã quên mất tổ tiên mình, – bà ta nói.

Tôi ra hiệu rằng “không hẳn thế”.

– Nhưng ngươi biết thành phố Lưỡi Dao còn nhận đồ tế cúng trong bao nhiêu ngày nữa? (tức là Teotihucán còn tồn tại bao nhiêu ngày nữa).

Đồ phải gió.

– Chúng tôi không biết điều đó, – tôi đáp.

Bà ta hỏi vì sao. Nếu tôi đến từ b’ak’tun thứ mười ba và biết nhiều đến như vậy thì sao tôi lại không biết chính xác cái ngày ấy.

Tôi nói với bà ta rằng, đến thời tôi được sinh ra, hầu hết sách vở của thế giới bà ta đang sống đây đều bị tiêu hủy, một vài cuốn sóng sót được thì không cho biết ngày tháng. Tôi ra sức giải thích thế nào là các nhà khảo cổ học, và họ xác định ngày tháng bằng cách nào, và rằng họ đã tính toán được thời điểm thành phố bị bỏ hoang vào khoảng k’atun thứ mười một, mười hai, hay mười ba gì đó của b’ak’tun này, tức là khoảng từ năm 650 đến 710 Công nguyên, nhưng không xác định được chính xác hơn, – tôi giải thích.

Lại im lặng. Bà ta chăm chú nhìn bức vẽ.

Tôi không nói gì thêm ít ra câu chuyện cũng đã dễ nói hơn lúc trước. Cảm giác cứng đơ đang mất dần.

Koh rút một cái phất trần đuổi ruồi trên giá và để nó trước đùi. Thế có nghĩa là cuộc tiếp kiến đến đây kết thúc.

– Có lẽ ta và ngươi, bên cạnh ta, sẽ thỉnh ý sọ một lần nữa sau một giỏ mặt trời, khi Người Nuốt ánh Sáng đã bị xua đi, – bà ta nói.

ĐỒ CHẾT TOI, – tôi nghĩ. Không, phải nói là “tôi đang gầm rít lên trong bụng”. Đồ phù thủy. Có lẽ tôi nên biến thôi. Tôi nên ra đường mà kiếm cái thứ chết tiệt đó, còn hơn là cứ quanh quẩn như thằng ngớ ngẩn ở đây suốt…

Không. Phải bám dai dẳng vào. Biết đâu đấy, có khi bà ta chỉ ra vẻ thế với mày để moi thêm thôi. Dấn thêm một bước nữa nào.

– Nhà Nhện Dệt Cầu Vàng sẽ không tồn tại được lâu nữa, – tôi nói, đánh liều xóa bỏ phép lịch sự, – chúng tôi không biết là bao lâu, nhưng chắc chắn không lâu.

– Ta, bên cạnh ngươi, đã biết điều đó lâu rồi.

– Sọ Đá Quý 2 dành cho người, và dòng tu của người, một nơi ẩn náu ở Ix.

Koh hơi nhúc nhích người. Tôi nghĩ bà ta hơi ngẩng đầu lên, như lối người ta bất ngờ nghe thấy điều gì đó, nhưng có khi chỉ là tôi tưởng tượng ra. Bà ta không nói gì.

Mẹ kiếp, – tôi rủa thầm. Thế là đi đời cái phương án A. Sọ Đá Quý 2 đã nhắc rằng tôi nên chờ cho đến khi bà ta ngỏ lời nhờ vả, rồi giả vờ nhượng bộ, bằng không bà ta sẽ nghĩ đây là một trò lừa đảo.

Bà ta lại nhúc nhích. Thoạt tiên, tôi tưởng bà ta định đứng lên bỏ đi, nhưng thay vào đó, bà ta nói:

– Vậy ngươi, bên cạnh ta, cuộc rằng Sọ Đá Quý 2 sẽ thắng trận bóng hông với nhà Mèo Rừng? – ý bà ta là bà ta nghĩ nhà Đại Bàng sẽ bị Mèo Rừng đánh bại, một cách đường hoàng hoặc không và sẽ phải chạy khỏi Ix.

– Ma’ lo’ yanil (chuyện đó chẳng ảnh hưởng gì), – tôi đáp, – dù thắng hay thua, nhà Đại Bàng cũng sẽ ở lại, nhà Mèo Rừng sẽ phải đi.

Ý tôi muốn bà ta hiểu rằng kiến thức siêu việt của tôi sẽ giúp Sọ Ðá Quý 2 có hỏa lực, ðủ ðể hạ bệ nhà Mèo Rừng.

Hẳn các bạn cũng đoán ra, lại một khoảng thời gian im lặng kéo dài mãi không dứt. Hừ, chí ít bà ta cũng không lải nhải như những con vẹt tầm thường khác.

– Ngươi đến đây vì Người Chèo Xuồng chứ không phải vì ta, – bà ta nói.

Tôi không biết phải trả lời làm sao. Thôi rồi, – tôi nghĩ, – sắp bị tống cổ rồi. Lại quay về số không.

Nhưng Koh lại nói:

– Người ở thời ngươi đã quên mất cách lập một chu kỳ mới.

Tôi gật đầu “phải”.

– Nhưng các ahau ngươi đang thờ cúng muốn đỡ đầu cho sự ra đời của một dòng giống mới của những mặt trời mới, sau khi các mặt trời của b’ak’tunthứ mười ba đã tắt.

– Tôi muốn góp phần bắtđầu một vòng quay mới.

– Vì sao? – bà ta hỏi, – Ngươi sẽ quay về thế giới của ngươi chứ?

– Tôi muốn cố gắng làm điều đó, – tôi đáp, nửa lảng tránh câu hỏi. Tôi nghĩ bà ta sẽ hỏi tôi định làm điều đó như thế nào, nhưng bà ta coi câu trả lời của tôi là một câu “vâng” và hỏi tiếp:

-Bax ten tex haabet? – Nghĩa là: “vì sao ngươi muốn [trải qua tất cả những điều này]?

– Vì ai cũng muốn bảo vệ gia đình mình.

– Ngươi, bên cạnh ta, có gia đình ở đó ư?

– Tôi có… những người mà tôi coi là gia đình nuôi.

Hay chí ít cũng có những người gần – như – bạn ở trên mạng, – tôi nghĩ.

Tôi đoán Koh biết tôi đang khuyếch khoác lên thế. Nhưng bà ta không tiếp tục theo suy nghĩ đó.

– Nếu những người ở thời ngươi sống sót

Biết đâu họ sẽ vẫn quên chúng ta?

Liệu họ có nhớ những ngày chúng ta được đặt tên?

Những ngày chúng ta qua đời?

Liệu họ có quên đi cách chúng ta cày cấy, dựng nhà

Cách chúng ta tấn công kẻ thù?

Cách chúng ta nuôi dậy lũ trẻ?

Liệu họ còn hát những bài ca nhắc đến tên chúng ta?

Họ có nhớ được không?

– Tôi sẽ thu xếp để họ nhớ dòng giống của chúng ta và cúng tế uay của chúng ta vào ngày chúng ta qua đời.

– Nhưng ngươi đã nói họ chỉ dâng cúng những lễ vật nghèo nàn.

– Không hẳn lúc nào cũng thế, – tôi ra hiệu.

– Và ngươi nói những người cùng thời ngươi là những kẻ đê tiện, – bà ta nói. Trong tiếng Ix, từ này không hẳn có liên quan đến từ “xấu xa”, nhưng nếu có thì cũng nặng nề hơn rất nhiều.

Mình nói thế bao giờ nhỉ? – tôi phân vân. Hừ.

– Họ xấu hơn những người khác ở thời này về nhiều mặt, – tôi đáp, – nhưng về những mặt khác, có thể nói họ tốt hơn.

– Và ngươi muốn ta chơi một ván cờ chín viên đá. Và ngươi nghĩ chỉ cần xem là có thể học được trong hai ánh sáng.

“Hai ánh sáng” là một thành ngữ, ý nói “ngươi nghĩ ngươi có thể học được ngay lập tức”.

– Tôi, dưới chân người, không có ý nghĩ đó.

– Vậy ngươi và ta còn làm gì ở đây nữa?

– Tôi, dưới chân người, muốn xin một quẻ bói.

– Ta đã xem cho ngươi rồi.

– Nhưng lần này, tôi muốn trao đổi một thứ lớn hơn, – tôi đáp. Tôi thưa với bà ta rằng tôi có thể cho bà ta biết mọi điều bà ta muốn biết bất cứ thứ gì sẽ được khám phá, phát hiện hay sáng chế ra trong vòng bốn b’ak’tun tới.

-Ta biết đủ nhiều để tự thấy hối tiếc vì đã biết, – bà ta nói. Tôi không rõ bà ta muốn ám chỉ những điều tôi vừa cho bà ta biết, hay những điều trước đây bà ta vẫn biết, hay cả hai.

– Vậy hãy cho phép tôi cho người biết điều gì đó có ích cho người. Hãy để tôi cho người biết điều gì đó.

– Ngươi đã cho ta biết hình dáng mặt trời.

– Hãy để tôi cho người biết điều gì đó giúp người rót mật vào ch’anac của những bông hoa của người. – Nghĩa là điều gì đó giúp người cứu giúp người dân của mình. – Tôi, bên cạnh người… chúng tôi có thể tạo ra vài thứ chưa ai từng thấy bao giờ.

– Ví dụ? – bà ta ra hiệu hỏi, đặt cây phất trần xuống.

– Tôi tả cho người cái bánh lăn cố định nhé? – tôi đề nghị.

– Nó là cái gì? – bà ta ra hiệu.

Tôi bắt đầu giải thích về cái bánh xe. Tôi kể rằng nó giống như các con lăn, nhưng được giữ cố định qua phần giữa, rằng những chiếc xe cút kít hữu dụng tuyệt vời, và tôi bắt đầu vẽ ra một cái. Nhưng Koh nói rằng ở đây họ có thứ này rồi và gọi Chim Cánh Cụt ra để lấy ví dụ. Tôi chẳng biết phải nghĩ sao. Nhưng cô gái lùn đã quay lại với một con báo đốm đồ chơi nhỏ bằng gỗ với bốn bánh xe thay cho bàn chân. Koh nói loại đồ chơi này khá phổ biến trong giới quý tộc, nhưng không được phép mang chúng ra khỏi nhà, nơi dân thường có thể nhìn thấy. Theo như tôi hiểu, lý do không phải vì dân thường sẽ nảy ra ý nghĩ rằng những chiếc bánh xe ấy có thể có ích, mà vì ai đó có thể bắt chước cách làm và dùng chúng để lôi kéo một bè phái thần phục mình. Hắn có thể đến một thành phố khác, khiến người dân ở đó kinh ngạc về cỗ xe của mình, tự nhận mình là một phù thủy vĩ đại và rốt cuộc sẽ trở thành mối hiểm họa đối với giới quý tộc. Cái bánh xe có thể trở thành một vật thiêng, trung tâm của một tín ngưỡng mới, như con dao, hay lửa, hay bí mật được bảo vệ nghiêm ngặt của gương lồi… hay món thuốc dùng trong cờ Hiến tế. Ngoài ra, Koh nói – tôi diễn giải lại tùy tiện một chút – rằng thời buổi này có vô khối những kẻ ở nhà tròn, nếu cần di chuyển thứ gì nặng, chỉ cần sai chúng làm là được.

Phát nản đi được. Hệt như có lần, tôi cho một cô gái rất sành điệu đi nhờ xe đến New Haven và khuyên cô ta nên học lái xe.

– Nếu hôm nay không có tôi cho đi nhờ thì cô làm thế nào? – tôi hỏi.

– Tôi sẽ gọi một anh chàng khác, bảo anh ta đưa tôi đi, – cô ta đáp, rồi ngủ với anh ta là được.

Thôi, không sao, – tôi tự nhủ, – quên loại bánh xe dùng để chuyên chở đi. Loại dùng để làm mâm bát vậy nhé?

Tôi bèn kể với bà ta về cái bàn xoay thợ gốm. Sự thể là, chỉ là nói sự thật thôi, khi bàn về chuyện bát đĩa ở đây – ở đây tức là ở Mesoamerica – anh phải công nhận rằng đúng, có những họa tiết trang trí thật đáng nể, nhưng hình dáng thì vẫn còn hơi méo. Việc ai đó chìa ra một cái bình tròn hoàn hảo sẽ gây ra một sự trầm trồ thán phục. Nhưng Koh nắm được tôi sắp nói gì, bà ta lại phản đối. Rằng hai Giáo hội lớn sẽ tuyên bố rằng bất cứ kẻ nào tạo ra được những loại bình lọ mới thì chắc chắn là phù thủy yêu thuật đầy quyền năng và họ sẽ phái cả một đội quân đến để tiêu diệt hắn. Kể cả khi điều đó không xảy ra và thứ dụng cụ có bánh xe kia được chấp nhận, nó sẽ đẩy hàng ngàn gia đình làm nghề gốm vào cảnh chết đói vì họ sẽ chẳng bao giờ theo kịp sự thay đổi đó. Tôi đoán đó cũng là lý do vì sao chúng tôi – ý tôi là người Maya cũng như người Teotuhuacán và các nền văn minh Mesoamerica lớn khác – không dùng cung và tên, trong khi những người Quá-Cao vẫn sử dụng. Chẳng khác gì chuyện tôn thờ đao kiếm của cácsamurai, khi Tokugawa (Tức Tokugawa Ieyasu, người sáng lập ra chính quyền quân sự thống trị Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868, còn gọi là Mạc phủ Tokugawa) tính toán rằng nếu để súng ống tốt lọt vào Nhật Bản, chúng sẽ làm lung lay cơ chế quyền lực, kể cả khi Mạc phủ là gia tộc đầu tiên sở hữu chúng. Vì vậy, ông ta và những người kế nghiệp đã tịch thu toàn bộ súng và thuốc súng, cấm cửa các thương gia Bồ Đào Nha trên hầu hết lãnh thổ Nhật Bản, và về căn bản, đã duy trì đất nước trong tình trạng lạc hậu suốt hai trăm năm mươi năm.

– Chúng ta không thể dùng những thứ đó ở đây, – bà ta nói, – kết thúc.

Chết tiệt. Tôi cạn ý tưởng rồi. Chúng tôi chưa tập dượt chuẩn bị cho tình huống này ở Stake.

– Vậy người hãy làm, coi như ném một quả bóng thôi, – tôi nói. Câu này giống như cách nói của những tay chơi bài poker: “đặt cược vào gà đi”, để xem chuyện gì sẽ xảy ra. Làm bừa đi, đánh liều đi.

– Ngươi nghĩ ta không tò mò về sự hiểu biết của ngươi, – bà ta nói. Tôi không đáp câu gì. – Nhưngđúng là ta có tò mò. Song sự tò mò là kẻ hành hạ, là kẻ tra tấn. – Nghĩa là sự tò mò của bà ta sẽ làm tổn hại đến những người mà bà ta không có lý do để làm tổn hại.

Ừ thôi, chí ít thì điều đó cũng cho thấy bà ta có đôi chút thấu cảm trong người, – tôi nghĩ bụng, – phải vậy không? Vấn đề là – mặc dù tôi nhìn chung không thích đưa ra những đánh giá tổng quát về con người, không phải vì tôi có thể sai, mà vì những thứ đó người ta đã nói cả rồi – vấn đề là con người chỉ có hai thể loại, hoặc biết thấu cảm, hoặc không, mà loại thứ hai thường nhiều hơn. Và hoặc bà ta là loại thứ nhất, hoặc chúng ta bị lòe. Chỉ có thể thôi.

Nào, suy nghĩ đi.

Sự thấu hiểu cảm xúc là một khái niệm khá trìu tượng để có thể diễn tả trong tiếng Ix. Mày phải khoanh vùng nó trong vốn từ về gia đình.

Được rồi. Bắt đầu.

– Tôi biết…, – tôi nói, – tôi biết rằng nếu người đi trên đường, và người bắt gặp một kẻ đang bóp chết một đứa trẻ ba tuổi, người sẽ muốn ngăn việc đó. Ngay cả nếu đó là con của chính hắn, ngay cả nếu đứa trẻ bị ghẻ lở và sinh ra tật nguyền, ngay cả nếu hắn có quyền giết nó, người sẽ vẫn muốn ngăn hắn lại, và nếu người có khả năng… tức là nếu người có thể ngăn hắn, người sẽ làm.

– Người ở thời gian ngươi không ở trên đường của chúng ta.

– Có đấy. Đến lúc đó, hàng tá của hàng tá của hàng tá của hàng tá trong số họ chính là con cháu của người, hoặc của chị em, anh em người, bởi…

Tôi bỏ lửng câu nói. Tôi ngẩng lên nhìn bà ta. Bà ta vẫn nhìn qua đầu tôi.

– Họ đang chết dần chết mòn, – tôi nói tiếp, – và trước khi chết, họ sẽ tự hỏi tại sao không ai buồn giúp đỡ họ, và nếu họ biết rằng người và tôi, kẻ dưới chân người, có thể cứu họ nhưng lại quyết định không làm, họ sẽ thắc mắc tại sao, và chúng ta sẽ không thể có một lý do đủ hợp lý để trả lời…

Tôi lại bỏ lửng. Những giọt nước mắt không-bao-giờ-chảy lại dâng lên đâu đó quanh con ngươi. Và tôi đang hổn hển, tôi hụt hơi, thậm chí suýt thì nói lắp như tôi vẫn thường bị hồi còn nhỏ mỗi lúc sợ hãi. Quỷ bắt mày đi, Jed, bình tĩnh lại, bình tĩnh…

– Ta, bên cạnh ngươi, đã quyết ý rồi, – Koh nói,

– Nhiều mặt trời đã được sinh ra

Và nhiều mặt trời nữa đang đến.

Tất cả những người được đắp từ bột ngô sẽ chết cùng mặt trời

Vào ngày Chúa tể 4, Vàng 3.

Và một ngày nào đó,

Những người kế tục mới của Iztamna sẽ đến.

Ông ta sẽ nặn ra những giống nòi mới,

Từ chất liệu mới

Từ ngọc bích.

Bà ta dừng lại và chuẩn bị nói “Ca’ek” – “Kết thúc” – nhưng tôi ngắt lời.

– KHOAN ĐÃ, – tôi nói (hừ, thực ra thì tôi đang gào lên), – chờ đã, người KHÔNG Có… (hạ giọng xuống nào, Jed – tôi tự nhủ) … người, ở trên tôi, không có quyền quyết định chuyện đó thay cho họ. Người không thể, ngay cả khi quyết định đó đúng đắn.

– Không, – bà ta đáp, – quyền mà ta không có là kéo dài thời gian của họ trên tầng thứ không, ngay cả khi ta có thể.

– Không, người có quyền đó, nó… người muốn cứu họ, nhưng người nghĩ là không nên, hoặc người biết là không nên, nhưng những điều tôi đã thấy có thể giúp ích thêm cho những điều người đã thấy… nghĩa là, tôi đã ở cả hai nơi, và tôi đã thấy những điều…

Chết tiệt. Tôi nhãng mất dòng suy nghĩ của mình. Tôi bắt đầu lại:

– Nếu tôi biết điều gì đó… nó có thể không phải điều hay, nhưng nó là sự thực… thì đó là người được phép làm bất kỳ việc gì người muốn.

Vì chẳng còn mấy quy tắc lịch sử mà tôi chưa vi phạm nên tôi chẳng cần nữa, tôi nhìn thẳng vào mắt bà ta. Mắt bà ta mở to và trợn tròn… không, chờ đã, không phải. Bà ta đã nhắm mắt lại, nhưng mí mắt bà ta được tô bằng chì trắng nên nhìn vẫn như đang mở và không có tròng, hệt như những hình vẽ của Harol Gray trong cuốn truyện tranh Annie mồ côi.

Phào… hơi giật mình một tí. Khỉ thật, chả nhẽ suốt từ nãy đến giờ bà ta không hề chớp mắt? Hừ, nếu có thì chắc là tôi không để ý.

Tôi chẳng biết làm gì hơn nên cứ nhìn trân trân vào cặp mắt giả của bà ta. Tôi đoán bà ta không muốn nhìn xuống, cũng không muốn trợn mắt nhìn lại tôi như đáng ra bà ta có thể,vì thế bà ta nhắm mắt lại.

Nào, Jed, nghĩ ra cách gì đi.

– Tôi, dưới chân người, thách người nhìn vào mắt tôi, – tôi nói. Chẳng khác gì bảo: “tôi thách người nện cho tôi một trận”. Nhưng tôi vẫn cảm thấy mình cần nó, tôi cần một cái nhìn thẳng vào mắt, một cái nhìn không chỉ có sự cao ngạo của kẻ bề trên. Chuyện này dễ dẫn đến ẩu đả lắm – chắc tôi đã nói điều này: ở đây, anh có quyền làm bất cứ điều gì khi bị thách thức – nhưng bà ta mở mắt ra nhìn tôi.

51

Hồi tôi còn học ở trường phổ thông Nephi – tôi nhận thấy rằng chẳng bao giờ có thời gian nào thực sự thích hợp để cắt ngang một bài tường thuật dài, và nếu có thì cũng không phải lúc này, tuy nhiên, như người ta vẫn nói, thưa quý độc giả thân mến và ba lần khoan dung, xin cho phép tôi cắt ngang trong ít phút – hồi tôi còn học ở trường phổ thông Nephi, có một bà giáo chuyên dạy thay ở các lớp dưới, một phụ nữ to béo, già đến mức nhớ được cả lũ cháu chắt của những người khai hoang đến trường bằng chân đất, bà ta là cả một kho lưu trữ tương đương một luận văn tiến sĩ về những trò giải trí khi phương tiện truyền thống chưa ra đời. Bà ta biết tất cả những gì có thể biết về các con rối chỉ, về việc thêu may trang trí, về búp bê, và nhất là về các trò chơi trong nhà – “bồi thường”, đố chữ, “chuyền dép”, “rồng hắt hơi”, đoán bóng trên tường, và cả cái nghi thức đáng sợ của trò vớt táo – cả một thế giời đã mất từng tồn tại suốt những buổi tối dài dằng dặc trước khi điện về tới nông thôn. Và một buổi chiều thứ sáu, bà ấy lấy một tấm vải trải giường màu trắng, cắt một dãy sáu cái lỗ thành hình ba cặp mắt nhỏ xíu và bảo chúng tôi treo lên lối vào một cái khoang rộng mà họ gọi là “phòng ấm”. Nửa lớp, hai mươi tư đứa, đứng đằng sau tấm vải và cứ ba đứa một bước lên nhìn qua những cái lỗ. Nửa lớp còn lại cũng lần lượt ghé sát mắt vào những cái lỗ, và nhìn thẳng vào mắt những đứa đứng bên kia và thử đoán xem đó là ai. Hóa ra việc đó gần như không thể, trừ trường hợp của Jessica Gunnerson, con bé tóc hoe bị bạch tạng nhẹ với mống mắt màu xanh tím hệt như màu mực cồn trên bản sao cuối cùng và mờ nhất của máy sao Dittto. Nếu không nhìn thấy thêm những đường nét khác của khuôn mặt, anh sẽ chẳng thể biết đó là người bạn tốt nhất hay kẻ thù tồi tệ nhất, anh chẳng thể biết đứa kia đang nhăn nhó mặt mày chòng ghẹo anh thế này, thậm chí chẳng biết nó là con trai hay con gái. Điều này làm tôi bị xáo trộn đến mức hàng chục năm sau, khi nhìn vào mắt một cô gái trẻ nào đó, ví dụ vậy, và thử tìm một liên hệ ít nhất là trên mức nhục dục, hoặc thể hiện tí hứa hẹn hay, tệ nhất, là một tẹo trung thực, và tôi cảm thấy rằng đúng, cô ta đang thành thực với mình vì mình đang nhìn qua hai ô cửa trong suốt vào sâu tận bên trong, nhưng rồi đột nhiên, tôi lại nhớ đến cái trò chơi ngớ ngẩn kia, và thế là cặp mắt ấy bỗng chốc biến thành hai cái hố cạn với sự trống rỗng vô tận đằng sau và cảm giác xa cách mỗi lúc một phình lên giữa hai chúng tôi, cái cảm giác trôi dạt trong không gian không sự sống, không chỉ không có liên lạc với với bất kỳ sinh vật nào ở hiện tại, trong tương lai, hay thậm chí trong quá khứ. Và lúc này – ý tôi là vào thời điểm năm 664 này – tôi lại gặp cảm giác đó. Tôi đang nhìn vào mắt cô nương Koh, khao khát gấp bội được nhìn thấy trong ấy một điều gì đó, một điều kỳ diệu, một biểu hiện tình cảm, hay chí ít là một chút lay động, một dấu hiệu gì đó chứng tỏ bà ta và tôi cùng ít nhiều là thật, và tỉnh táo, và tự chủ về tinh thần, và cùng tồn tại trong một không gian, ở cùng một thời gian. Tôi nghĩ mình đã nói điều này: khuôn măt công nương Koh ít biểu đạt như bất kỳ khuôn mặt nào tôi từng thấy; tôi từng gặp những khuôn mặt lạnh như đá phía bên kia bàn trong khoảng mười ngàn ván cờ vua, cờ vây và bài poker, nhưng cặp mắt bà ta còn ẩn chứa vẻ gì đó hơn thế nữa, vẻ gì đó loáng ướt và dữ dội, như cặp mắt của Cléo de Mérode (diễn viên múa lừng danh người Pháp). Hai tròng đen tối đến mức không thể xác định được đồng tử bắt đầu từ đâu, nhưng vẫn thấy rõ đó là hai màu đen khác nhau, như màu sắc trong các bức họa của Ad Reinhardt (họa sĩ theo trường phái trừu tượng người Mỹ), và rằng con mắt bên trái lạnh lùng hơn, con mắt bên phải ấm áp hơn… tôi tưởng bên ngoài trời đang mưa, nhưng rồi tôi nhận ra tôi đang nghe thấy tiếng máu chảy rần rật trong tai.

Nào, cố lên, – tôi tự nhủ. Sắp được rồi. Cố lên.

Bốn mươi nhịp trôi qua. Tôi nghĩ mình nhìn thấy điều gì đấy trên khuôn mặt vô hồn của bà ta, cứ như bà ta đang cắn lưỡi, một cảm giác đau không thể che dấu hoàn toàn: nhưng sau tôi kết luận rằng chắc tôi tưởng tượng ra.

Tám mươi nhịp.

Không nhất thiết phải khiến giây phút này giống như một vụ hiếp dâm như thế. Ta hãy biến nó thành một cuộc ân ái. Nhé?

Đến nhịp thứ một trăm hai mươi, lưng tôi kêu đánh khục một cái, sụn xương sống, và tôi muốn nhìn đi chỗ khác lắm nhưng vẫn cố ghìm được. Nhìn tiếp đi, Jed. Bây giờ tôi có cảm tưởng như chúng tôi là hai võ sĩ sumô đang đè cả nửa tấn thịt lên nhau giữa vòng tròn dohyo (sới đấu của môn võ sumô). Cố lên nào, – tôi tự nhủ.

Không phải tự đánh vật. Cứ giữ yên. Giữ yên. Nào, xin mày đấy, Thằng Vô Hình, chỉ một lần này thôi, chứng tỏ mình đang có mặt đi. Xin mày. Xin mày.

– Chính vì ta quan tâm đến họ như con cháu mình nên ta không muốn họ phải khổ sở trên tầng thứ không này, – Koh nói, tiếng bà ta nhý vọng ðến từ xa cả dặm. Bà ta không ngoảnh ði.

– Tầng thứ không là tầng duy nhất, – tôi bực tức.

– Nếu đó là sự thật thì cũng vậy thôi, – bà ta đáp.

– Không, không, không, không, không thể cũng vậy được, họ muốn… họ muốn được ở bên nhau đến chừng nào có thể.

– Vậy là họ tham lam và hèn nhát.

– Không, không…không, họ… họ giống như một gia đình cùng nhau đến dự lễ hội.

– Và có gì để xem ở lễ hội đó? – bà ta hỏi. Tôi đoán ý bà ta là cuộc vui ấy sẽ chẳng mấy chốc mà kết thúc.

– Đó là lý do vì sao họ muốn có những đứa trẻ, – tôi đáp, – để thấy tất cả bắt đầu lại từ đầu… chuyện tôi và người đang nói đây thật là b’ach na tok.Nghĩa là toàn bộ câu chuyện này thật kỳ cục.

– Phải, đúng thế, – bà ta ra hiệu.

– Và nếu các mặt trời tiếp tục tồn tại, – tôi nói, – nếu có một chu kỳ mặt trời mới… ai biết được điều gì sẽ xảy ra sau đó? Tôi và người có thể chơi cờ Hiến tế hàng bốn trăm lần của hai mươi ván cũng không thể biết được. Biết đâu sẽ có chuyện gì đó xảy ra vào b’ak’tun thứ hai trăm, thứ hai ngàn, và điều đó cũng bõ để…

Tôi nói khẽ rồi dần im bặt. Giời đất ạ, – tôi nghĩ, – thế này thì quá sức mình. Một tỉ năm tiến hóa và năm triệu năm tiến hóa của loài người, và bây giờ nó chỉ còn là chuyện giữa hai chúng tôi.

– Trên đỉnh núi đen nhất có một chiếc bình, – Koh nói, – yaj (tức là “nỗi đau”, và trong trường hợp này có nghĩa là “nước mắt”) của mọi sinh vật trên đời đều nhỏ vào chiếc bình đó.

– Tôi, kẻ dưới chân người, đã nghe nói.

Bà ta nói tiếp:

– Lai can h’tulnaac

lail x nuc homoaa

cu tz’o, cu t’za.

Và khi chiếc bình khổng lồ

Đầy lên đến miệng

Nó sẽ vỡ tan, sẽ chấm hết.

– X’tan boc ch’ana k’awal nab, – tôi đáp, – Điều này chẳng khác gì trộn cháo ngô đặc bằng nước đái lợn.

Trong tiếng Ix, câu này tương tự như từ “vớ vẩn!”. Nhưng tôi đoán các bạn sẽ thấy nó buồn cười hơn nếu vừa kéo hai trăm pound đá vôi lên đỉnh kim tự tháp cao chín mươi feet dưới cái nóng 110 độ.

Koh ra hiệu tỏ ý: “tùy ngươi nói”.

Vì một lý do nào đó – và tôi không nghĩ đây là một trong những trò tai quái của Koh – tôi liền có cảm giác như vừa bất tỉnh trong một hoặc hai giây, hoặc như đang suy nghĩ chuyện gì đó quan trọng và bỗng quên mất, và đến khi tôi nhớ ra được ra mình đang làm gì thì chúng tôi đã không còn nhìn chằm chằm vào nhau nữa. Tôi nhìn xuống. Koh nhúc nhích người dưới tấm áo choàng. Chúng tôi đã ở trong một không-thời gian khác.

– Người Chèo Xuồng Già không đến đây, – Koh nói. Nghĩa là bà ta không có Bụi của Người Chèo Xuồng Già, thành phần gây ảo giác về không gian trong món ma túy của cờ Hiến tế.

– Người sẽ chơi mà không cần nó chứ?

Bà ta ra hiệu rằng chẳng ích gì.

– Nhưng đôi khi người cũng đi theo Người Chèo Xuồng chứ, phải không?

Bà ta ra hiệu “phải”.

Tôi nghe thấy tiếng Chim Cánh Cụt sau lưng. Cô ta đã đi ra trước mặt và thắp vòng hương thứ hai. À, dấu hiệu tốt đây. Nó đồng nghĩa với sự chấp nhận chăng? Cô ta lạch bạch lại gần Koh và đứng kiễng trên đầu ngón chân. Koh cúi đầu xuống, thì thầm chừng năm mươi từ vào tai cô ta và đưa cho cô ta thứ gì đó. Cô gái lùn hấp tấp chạy ra ngoài.

Xong rồi, – tôi nghĩ. Bà ta sẽ kiếm một ít thứ bột thổ tả của Người Chèo Xuồng ấy và chơi một ván. Có khi chúng tôi sẽ tìm ra thằng khốn ấy ngay bây giờ. Nếu chúng tôi tìm được một cái tên, tôi chỉ việc viết ra, để lại nó trong chiếc hộp và chẳng thèm bận tâm đến món thuốc nữa. Tao sẽ tóm được mày, thằng doomster. Đúng thế. Dễ thôi.

Koh lấy một cây đuốc sim mới và châm vào lò lửa. Nó bùng lên ngọn lửa màu vàng xanh. Bà ta cắm nó lên giá đỡ. Ánh sáng lấp loáng trên nửa đen của khuôn mặt.

Koh đã đổi ý vào một lúc nào đó mà tôi không hề nhận thấy. Và giờ đây, khi mọi việc tiến triển tốt đẹp, đến ngay cả tôi cũng không dám tin lý lẽ của mình thuyết phục được bà ta. Tôi cảm giác rằng đó không phải nhờ tôi, cùng lắm tôi cũng chỉ truyền đạt được vài thông tin mới và bà ta đủ mạnh mẽ để thay đổi quyết định dựa trên những thông tin ấy. Tôi cảm thấy mình bị đẩy vào thế yếu. Bà ta mở một trong mấy cái giỏ, lấy ra một điều xì gà xanh, thon dài, cắn bỏ chừng một phần tư inch ở đầu điều thuốc và châm nó vào cây đuốc, hít một hơi dài, phà khói ra bốn hướng và khấn:

– Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu trắng

Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu đen,

Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu vàng,

Giờ đây, hơi thở của trái tim con màu đỏ,

Hỡi Thần Muối Mặn Già,

Hai chúng con, dưới chân người

Cầu xin người

Cho chúng con mượn

Cặp mắt nhanh,

Cặp mắt tinh tường,

Của thần tối cao,

Tỏ tường mọi việc.

Bà ta cúi xuống và phà một hơi khói dài qua mắt giỏ. Bà ta chờ một lúc, mở nắp ra, thò tay vào và khẽ khàng nhấc ra một chiếc giỏ hơi nhỏ hơn một chút đặt bên trong. Mối đan của chiếc giỏ này thưa hơn, tôi nhìn thấy có thứ gì đó chuyển động bên trong và một vật màu trắng, hình quả tim lơ lửng ở giữa. Koh đặt nó xuống và mở hé nắp đậy bằng tay phải. Vật màu trắng đó là tổ của một đàn ong vò vẽ giấy lưng dài. Koh thò tay trái vào, nhanh đến nỗi mắt tôi không kịp dõi theo, và dùng bảy cái móng tay dài tô đen của mình chộp lấy một con ong cái béo tròn, màu vàng pha xanh lá cây. Bà ta đặt nó xuống lòng một chiếc đĩa con. Con ong dài tối thiểu hai inch, với cái bụng chửa và vòi đẻ trứng dài ngoẵng. Cánh nó đã bị cắt bỏ. Nó nhìn quanh bằng cặp mắt to tướng. Ngón trỏ bàn tay cái của Koh từ trên cao dí xuống, chặn đoạn giữa bụng và ngực con ong, đè nó xuống đĩa. Mặc dù bị say khói thuốc nhưng nó vẫn quờ quạng tìm cách thoát, mấy cái chân trượt đi trên bề mặt tráng men trơn mịn của chiếc đĩa. Koh dùng hai móng tay trên bàn tay phải làm lưỡi kéo, bấm đứt đầu con ong. Nó rơi xuống đĩa, hai hàm hết há ra lại khép lại. Tiếp đó, bà ta nhón lấy cái ngòi đốt và vòi đẻ trứng và dứt chúng ra khỏi bụng con vật đáng thương. Một túi chứa nọc nhỏ, căng, hai quả trứng tròn, trong veo, một ít lông vàng, mấy vệt kitin bị lôi ra theo. Koh đặt cái chùm bầy nhầy ấy xuống cạnh đĩa bên kia. Cuối cùng, tay trái vẫn giữ cái bụng ong, bà ta bứt lấy một trong sáu cái chân đang giãy dụa- tôi nghĩ là chân trước bên phải – và bỏ nó vào một cái đĩa nhỏ xíu khác. Bà ta đẩy cái đĩa về phía tôi.

Koh nhấc con côn trùng năm chân, không đầu, vẫn còn đang giãy dụa lên, bỏ tọt vào miệng, nhai hai lần và nuốt.

Tôi ngần ngừ.

Nào, Jed, – tôi tự nhủ – đừng có hèn thế. Tôi nhặt cái chân lên, xoay xoay nó một cách ngớ ngẩn trong tay như thể nó sắp nhảy lên cắn vào mắt tôi. Thôi được rồi. Tôi bỏ nó vào miệng. Nó vẫn còn giần giật trên lưỡi tôi. Tôi nhai nát nó và nuốt nhanh hết mức có thể. Koh đưa cho tôi điều xì gà, chắc là để đẩy nó trôi xuống. Tôi hít một hơi ra trò. Nó hơi khô và có vị lạ, nhưng không tồi. Tôi không biết làm gì với nó nên cứ giữ lấy. Cô gái lùn đã quay lại và bày ra một dãy nào giỏ, nào bình, nào đĩa con ở hai bên bệ nóc lò, cứ như thể chúng tôi sắp dùng bữa trà chiều vậy. Tôi đã cảm thấy miệng mình rộp lên to hơn cả đầu.

Koh nói:

– Bây giờ chúng ta coi như

Ta sẽ chơi một ván cờ lớn tại đây,

Trước mặt người, bên cạnh ta

Liệu ngươi có bán rẻ ta cho các thị tộc thù địch?

Hay khai ra tên ta cho những kẻ xa lạ?

Liệu ngươi có kể lại giữa đám đông

Về chuyện đang xảy ra ở đây,

Trong nơi ẩn náu cuối cùng của chúng ta?

Ở đây,

Dưới bầu trời

Trên ngọn núi này của chúng ta?

Liệu ngươi có luyên thuyên chuyện này ra bên ngoài, giữa chợ?

Liệu ngươi giở cuốn sách của ta,

Giữa ánh sáng ban ngày?

Tôi trả lời một cách khó khăn bởi lưỡi của tôi có cảm giác sưng phồng và nặng nề như một súc gỗ:

– Sao tôi có thể là một k’iik

Nếu tôi từng nói ra bất cứ một bí mật nào?

Nếu có, người ta sẽ không bao giờ còn gọi tôi

Là con trai của nhà Đại Bàng.

Chim sáo đá sẽ chế nhạo tôi

Vào môi, vào tròng mắt

Ta-tu sẽ liếm sọ tôi

Trên đụn cát khô cằn,

Cách xa hang núi này,

Trên miệng núi lửa giữa biển khơi,

Dưới tầng trời.

Thế đã ổn chưa nhỉ? – tôi tự hỏi. Nghe chuẩn chưa? Hay bà còn muốn nghe bằng tiếng La tinh nữa?

Rất chậm rãi, Koh ra hiệu “chấp nhận”. Tôi quan sát bàn tay đen của bà ta buông xuống đùi. Nó cứ rơi mãi, rơi mãi mà chưa xuống đến nơi, và rồi dường như nó không rơi nữa và bà ta cứ để nó lơ lửng như thế trong không trung. Kỳ cục thật, – tôi nghĩ. Tôi nhìn sang vòng hương đồng hồ, hay đúng hơn là tôi bắt đầu nhìn sang và mắt tôi phải mất một lúc mới nhìn tới nơi. Lại là cái món thuốc xáo trộn thời gian của Muối Mặn Già đây mà. Chỉ có điều nó làm chậm thời gian hơn cả lần trước… dào ơi, đây rồi. Rốt cuộc mắt tôi cũng đến được chỗ vòng hương, xem ra nó sắp chảy hết một nửa, nhưng tôi không nhìn kỹ được vì Chim Cánh Cụt hẳn đã trùm một lớp vải màn hay gì đó lên trên nó… ô, xin lỗi, không phải, đó chỉ là một làn khói, không hề chuyển động, hay đúng hơn là nhìn như không chuyển động do tác dụng của thuốc. Tôi nghe tiếng Chim Cánh Cụt thì thào câu gì đó. Tôi đưa con ngươi sang nhìn Koh. Cứ như hai tảng đá hoa cương lớn đang xoay trong ổ được tra dầu. Koh dùng tay ra hiệu cho tôi chờ, đúng cái tín hiệu mà thị tộc Đại Bàng dùng trong các chuyến đi săn hay đột kích để ra lệnh đứng im.

Ai đó huýt sáo bên ngoài. Chim Cánh Cụt lon ton chạy ra ngoài. Tưởng như hàng phút trôi qua giữa từng bước chân ngắn ngủn. Koh đứng dậy. Hệt như đang nhìn quả núi được bẩy lên chậm rãi bởi sự dịch chuyển của mảng kiến tạo bên dưới. Bà ta quay về phía tôi, rũ rũ áo choàng cho chỉnh tề. Ái chà, – tôi kêu thầm trong bụng. Thật là đáng kinh ngạc, bà ta cao hơn rất nhiều so với tầm vóc trung bình của người phụ nữ Maya, thậm chí cao hơn tôi, tức tôi bây giờ ấy, một ly, mà Chacal đã thuộc loại cao lớn lắm rồi. Hết sức thô lỗ, tôi ngoài đầu lại quan sát. Bà ta có vẻ hơi gầy dưới tấm áoquechquemitl (một loại áo của phụ nữ gốc da đỏ ở Mexico, giống như tấm khăn hình quả trám có một lỗ hổng ở giữa để chui đầu qua, thường có hoa văn sặc sỡ). Hầu hết những người đếm mặt trời đều gầy gò, nhưng có lẽ bà ta hơi gầy quá. Bà ta bước bốn bước ra giữa căn phòng, hạ mình xuống gối, mặt hướng ra ô cửa ra vào phía sau lưng tôi. Tôi nhìn chung không thạo lắm về ba lê, nhưng nhiều năm trước, tôi từng được xem Rudolf Nureyev diễn vở Khúc dạo đầu một buổi chiều của thần Đồng áng, trong cử chỉ của anh ta có một vẻ gì đó hết sức cao ngạo, những ngón tay như muốn nói “ta là nhất, còn ngươi chẳng là gì”. Và lúc này đây, công nương Koh cũng có cái vẻ y như vậy. Nhưng ở đây, điệu bộ ấy không bị coi là khó chịu.

Tôi quay người lại. Một cái đầu và hai cái vai xuất hiện ở lối cửa đu đưa lên xuống khi chủ nhân của chúng đứng dậy. Hai mống mắt tôi phải căng ra, nhưng cũng rất từ từ, như một đám tinh vân quan sát qua ống kính viễn vọng lớn, và hắn lọt vào tiêu điểm. Đó là một gã đàn ông cao dong dỏng, khoác chiếc áo choàng mỏng sẫm màu. Hắn có mớ tóc dài lờm xờm như một gã thầy tế, khắp người trát tro xám. Tôi không đoán được những dấu hiệu trên người hắn, nhưng hắn bốc mùi như một con cầy hương, hay đúng hơn, hắn đang xức một mùi hương nhân tạo chế từ cây cúc xạ. Những kẻ thấp kém hơn trong nhà Mèo Rừng cũng thường xức mùi này. Vậy hắn là người của phe kia, nhà Báo Sư Tử, nhưng hắn không thuộc dòng dõi ấy. Có lẽ hắn đến từ một thị tộc nào đó dưới trướng nhà Báo Sư Tử, chuyên làm thầy tế cho họ nhà này. Hắn kể lể chuyện gì đó bằng thứ tiếng tôi nghe không hiểu với giọng thì thào và Koh trả lời cũng bằng thứ tiếng ấy. Chả hiểu gì cả, – tôi nghĩ bụng. Nói bằng thứ tiếng gì thế chả biết. Hắn đi về phía Koh, bước năm bước ngắn ngủn, chậm chạp. Koh không nhúc nhích.

Cảnh tượng nay có điều gì đó khiến tôi không thích. Nó cho tôi tí cảm giác rợn tóc gáy. Gã Báo Sư Tử sờ soạng thứ gì đó bên cạnh hông. Không thể nào, – tôi nghĩ. Hắn rút ra một cái túi nhỏ, dí sát lên tận mặt, tháo thêm vài cái nút thắt bí ẩn theo kiểu dân chài, vụng về mở ra và lấy ra một vật. Tôi không nhìn rõ vật đó là gì.

Koh vươn người ra phía trước và há miệng. Gã Báo Sư Tử bỏ vật đó vào miệng bà ta, bà ta ngậm miệng, thu người về và nhai.

Tôi hơi giật mình, một chút hậu quả để lại từ thời còn là con chiên Công giáo chưa qua lễ kiên tín. Các nghi thức của lễ ban thánh thể bắt nguồn từ đây chăng? – tôi tự hỏi. Nhận lấy và phê đi, đây là mẩu giấy thấm của ta. Tôi thấy mình suýt nghẹt thở vì phải yên lặng.

Có điều gì đó chua chát khi chứng kiến Koh làm cái việc rất đời thường, rất con người, là ăn như thế này. Trong sự chua chát ấy có cả sự thương cảm đến mệt mỏi, như thể anh đã chứng kiến bà ta làm việc này cả ngàn lần. Và bà ta bỗng trở nên không khác gì một kẻ phàm tục, một cô gái mua vui quanh quẩn bên anh. Có khi còn hơi dở người nữa.

Tên sứ giả của nhà Báo Sư Tử ngả người về phía trước để nghe tiếng Koh nuốt. Cô gái lùn đưa cho hắn cái tách mà tôi đoán là đựng nước nóng, và hắn chìa nó cho Koh. Bà ta dùng mép áo choàng lót tay, cầm lấy chiếc tách, uống cạn thứ trong đó và đưa trả lại cho hắn. Hắn nhìn vào tách, rồi nhìn xuống bà ta. Bà ta há to miệng. Hắn kiểm tra một lúc rồi chìa hai cánh tay ra tỏ ý bằng lòng. Tôi thấy trò này có phần hạ thấp Koh, cứ như bà ta đang uống thuốc an thần trong tù vậy. Gã đàn ông của nhà Báo Sư Tử lôi ra một vật be bé từ cái túi khác đeo bên hông. Chim Cánh Cụt chìa ra một cái mâm trao đổi và hắn đặt nó vào giữa. Đó là một bức tượng nhỏ của Koh, với khuôn mặt được tô vẽ theo đúng kiểu đặc trưng của bà ta. Chắc đó chính là thứ Koh đưa cho Chim Cánh Cụt lúc nãy. Cô gái lùn ngâm nga đều đều một bài cảm-ơn-khách, vẫn bằng cái thứ tiếng cổ xa lạ kia.

Tên Báo Sư Tử cũng đáp lại một đoạn cảm-ơn-chủ-nhà, khom người xuống và đi lùi vào đường hầm. Chim Cánh Cụt cũng đi ra theo hắn. Vậy ra đây là cách họ làm việc này, – tôi nghĩ. Ngay cả Koh và các nữ tư tế của Nhện Dệt Cầu Vàng cũng không có tất cả các thành phần của món thuốc. Nó là một phương thức quản lý “hai chìa khóa”. Món thuốc chỉ phát huy đầy đủ tác dụng khi có đủ hai thành phần. Những người đếm mặt trời đứng đầu nhà Bìm Bìm biết cách làm một thành phần, người của nhà Bướm Đuôi Nhạn biết cách làm thành phần còn lại, và không nhà nào biết được bí quyết của nhà kia từ hàng trăm năm nay kể từ khi một thiên tài nào đó đặt ra cách thức này.

Hừ, Jed, lẽ ra mày phải đoán được điều này chứ. Thảo nào thành phố này yên ổn được lâu đến vậy. Mẹ kiếp sao mình không nghĩ ra nhỉ?

Chậc, sẽ khó khăn đây.

Nản quá đi mất. Tôi cảm thấy trong hai lòng bàn tay nắm chặt của mình, những cái móng dài đang đâm thủng cả da. Bình tĩnh lại nào, – tôi tự nhủ, – bình tĩnh. Sức mạnh thật sự nằm ở tinh thần coi nơi kết thúc là điểm xuất phát mới. Thở sâu nào.

Koh ngồi yên. Tôi cũng ngồi yên. Tôi chớp mắt. Hai mí mắt tôi chậm chạp hạ xuống và kéo lên, như trời tối dần và sau một đêm dài lại sáng trở lại. Không khí yên ắng, chỉ có tiếng sột soạt từ con đường hầm bên ngoài cửa. Rồi đến một tiếng huýt sáo khẽ như tiếng chim cu gù gù, Koh đứng lên, đi tới chỗ bức vách, lách qua, cúi xuống mặt tôi – tôi chưa kịp quay lại tư thế cũ – túm lấy tóc tôi, không phải cái đuôi sam giả, mà là lọn tóc trước trán rồi hôn tôi một cách thô bạo, đẩy cái lưỡi mềm mượt vào miệng tôi, quấn lấy lưỡi tôi, cọ xát nó vào hai má tôi, lên vòm miệng, vào giữa những cái răng nanh mài nhọn, vào những vết rách mới và vết sẹo cũ trên môi, xuống tận cuống lưỡi, vào mọi ngóc ngách…

52

Koh không giống bất cứ thứ gì tôi từng nếm trải, cả ở b’ak’tun thứ chín lẫn mười ba, có thể tả là hơi giống cái vị lờ lợ của uni – nhím biển sống – nhưng đậm hơn, kém tươi hơn và gắt hơn. Ối dà, một nụ hôn, – tôi tự nhủ, – thứ cuối cùng mình nghĩ đến trong hoàn cảnh này; thổ dân châu Mỹ làm gì có văn hóa ôm hôn.

Tôi gần như tưởng Koh muốn tôi lột xoạch cái mớ quần áo trên người bà ta và xông lên, nhưng lúc tôi còn đang tính xem có nên vuốt ve chỗ nào đấy hay không – nếu tôi còn đủ bình tĩnh để tìm được một chỗ thích hợp – thì bà ta đã thả tóc tôi ra, dứt khỏi miệng tôi sau một cái chụt ướt át, và quay về ngồi vào chỗ của mình ở phía bên kia bếp lò. Cô gái lùn vừa quay lại,đặt xuống một cái giỏ đựng đầy những bình và lọ rồi đưa cho Koh một cái tách đựng thứ gì đó. Bà ta uống vội như muốn rửa trôi cái vị của tôi khỏi miệng. Tôi thả người ngồi xuống, cố nén tiếng thở hổn hển. Vẻ mặt Koh như chẳng có chuyện gì xảy ra. Thật kỳ cục, tôi cảm thấy có lỗi với Marena, mặc dù cô ta và tôi chưa phải một đôi thực sự. Bình tĩnh nào, thằng hư hỏng, – tôi nghĩ, – mày đang mơ thôi. Tất thảy những ả đàn bà lẳng lơ đều thích những con cá lớn. Họ thèm gì quan tâm đến một kẻ hèn mọn thấp kém… thôi, kệ xác…

Khặc, Dư vị tê dừ như vừa ăn phải cá nóc mỗi lúc một tăng lên trong miệng tôi. Tôi loạng choạng một chút rồi cố ngồi thẳng dậy.

Hừ, ra là thế đấy. Bà ta vừa cho tôi nếm món thuốc. Chỉ đơn thuần là thao tác nghề nghiệp thôi. Chả có tí tình cảm nào cả.

Vậy ra đàn ong sản sinh ra chất hóa học X – có lẽ họ nuôi chúng bằng một thứ gì đó đặc biệt và thứ đó được tinh chế lại trong cơ thể chúng – và nó chính là Bụi Của Muối Mặn Già. Và quy trình làm do Nhện Dệt Cầu Vàng nắm giữ. Sau đó, nếu anh kết hợp nó với Bụi Của Người Chèo Xuồng Già – tức là chất Y mà tên sứ giả của nhà Báo Sư Tử vừa cho công nương Koh – nó sẽ cho tác dụng đầy đủ để chơi được ván cờ với chín viên đá.

Hừ, rõ chán. Rõ thất vọng. Sọ Đá Quý 2 cứ tưởng bà ta có toàn bộ món thuốc trong tay. Nhưng trái lại, bà ta phải kê một đơn thuốc và dùng hết liền một lúc dưới sự giám sát của thị tộc hậu duệ mèo. Và theo cách bà ta nói lúc trước, dường như ngay cả việc đó cũng không phải chuyện bình thường, họ không bán thuốc theo yêu cầu và bà ta phải nhờ cậy mới được một liều bé xíu. Tệ hại thật.

Hừm.

Sẵn sàng chưa? – Koh ra hiệu.

Tôi dựng thẳng lưng lên, ra hiệu “sẵn sàng”. Koh đưa điếu xì gà lên hít một hơi dài.

– Hơi thở của con màu trắng, hơi thở của con màu đỏ, – bà ta bắt đầu lầm rầm.

Khi ngồi vào bàn cờ, anh phải khiến bản thân mình tin rằng anh là trung tâm của vũ trụ. Nhưng lần này, tôi không phải tự thuyết phục mình điều đó. Tôi đã tin sẵn rồi. Sức nặng của lực hấp dẫn lớn chưa từng thấy, nhưng đồng thời, dường như tôi đang hấp thụ nó để tích lại thành một năng lượng khổng lồ như trái núi. Tôi tưởng như cảm thấy được từng lớp vật chất khác nhau dưới chân mình, xuống tận phần lõi cháy sáng trắng như pha lê của trái đất: đầu tiên là bông, rồi thảm cói, đất sét, đất trồng, đá và đá nóng chảy. Mọi thế giới dưới nước và trên trời đều xoay quanh chúng tôi. Tôi thấy hoàn toàn thư thái.

Cô gái lùn luồn một ngón tay qua một vòng thòng lọng trên nóc lò, kéo cái nắp vuông bằng gỗ lên và đẩy nó sang một bên. Nhìn có vẻ nặng nhưng cô ta xem ra cũng không phải gắng sức. Khoảng không bên dưới thay vào khoang lò lại là một cái hốc vuông vắn, sâu chừng mười lăm inch, rộng chừng bốn mươi inch. Trên mặt đáy phẳng của cái hốc, tôi chỉ nhìn thấy đường viền ngoài được khắc chạm của một bàn cờ hình vuông, mỗi cạnh dài khoản mười ba inch. Koh đang ngồi ở hướng tây nam, còn tôi,hướng đông bắc. Cô gái lùn thắp nến bấc ở rìa tây bắc và đông nam của cái giếng đá khiến nó sáng bừng lên. Đá này là loại đá phiến ma đen hạt mịn, lên nước bóng nhoáng,thứ nước bóng chỉ có thể có được do tiếp xúc với da người, qua nhiều đời vỗ, chà, xát, đánh bóng; và khi Koh vỗ năm lần lên thành hốc phía tây nam bằng chuỗi cây phất trần đuổi ruồi, do tiếng vang, hay đúng hơn, do ít tiếng vang nên tôi có thể nói chắc rằng cái hốc được đục vào đá nguyên khối và chúng tôi đang ngồi trên đỉnh một ngọn núi chìm, chạy dưới lớp đất bồi tích của thung lũng đến tận chân dãy Sierra Madre Oriental.

– Ya’nal Wak Kimi, – Koh lầm rầm,

Ngày hôm nay

Hấp hối 6,Nai đực 14, tun thứ mười một,

Gần cuối k’atun thứ mười một của b’ak’tun thứ mười,

Con xin mượn hơi thở của mặt trời hôm nay,

Xin mượn hơi thở của mặt trời ngày mai,

Của những mặt trời đến sau ngày mai.

Bà ta bốc một nhúm thuốc lá ướt trong một chiếc giỏ nhỏ, luồn tay vào dưới tấm áo quechquemitl để xát nó lên đùi. Tôi không hình dung được nhiều lắm những gì đang diễn ra dưới lớp vải, nhưng nó vẫn là một động tác khá gợi tình.

Tôi lui người về đằng sau một chút. Tôi cảm thấy không ổn chút nào. Tôi chắc chắn mình sắp nôn ra không chỉ những thứ có trong dạ dày mà toàn bộ đường tiêu hóa. Mọi thứ, từ thực quản cho đến ruột kết, sắp sửa phun ra khỏi miệng tôi và tung tóeđầy bàn cờ. Tôi chặn tất cả lại và ngồi thẳng lên thêm vài độ nữa. Bình tĩnh nào Joaquinito. Mày muốn chơi cùng những nhân vật quan trọng mà. Vậy thì hãy chơi đi.

– Hơi thở của con là gió vàng, – Koh tiếp tục,

Hơi thở của con là gió đỏ,

Hơi thở của con là gió trắng,

Gió đen và gió xanh ngọc lục bảo.

Ngươi, đến từ gia đình người chú của ta

Ngươi, đến từ nơi xa, và bây giờ đang ngồi cạnh ta,

Chúng ta đang ngồi cùng nhau,

Giữa bốn đỉnh núi cao,

Bốn miện núi lửa,

Trên đỉnh núi màu lục – lam

Cách đỉnh núi trắng phía đông bắc năm mặt trời

Cách đỉnh núi đỏ phía đông nam năm mặt trời,

Cách núi lửa vàng phía tây nam năm mặt trời,

Và cách đêm tối,

Cách núi lửa đen reo rắc ghẻ phía tây bắc,

Đúng năm mặt trời.

Cô gái lùn trao cho Koh một vật. Đó là một viên đá đen hình nón tròn, chiều ngang đáy khoản hai inch, cao khoảng bảy inch, được mài đến độ bóng nhoáng. Koh đặt nó vào ô, hay đúng hơn là vào một chỗ lõm lờ mờ của phần tư màu đỏ trên bàn cờ – dù mặt bàn cờ chỉ còn sót lại loáng thoáng vài vệt màu, nhưng người ta vẫn biết chỗ nào là màu nào – tương ứng với ngày hôm nay. Đáy nó vừa khớp với chỗ lõm nên nó đứng thẳng, vững vàng. Cô gái lùn đưa tiếp cho Koh một viên nữa, rồi một viên nữa, cho tới khi chín viên đá sừng sững đứng trên mặt bàn cờ, tạo thành một bản đồ sao thể hiện thời điểm này, tại vị trí này, với chòm Tua Rua, mặt trăng và sao Kim mới mọc ở rìa đông. Tiếp đó, bà ta đặt thêm năm viên đá mà tôi đoán là tượng trưng cho năm đỉnh núi của Teotihuacán. Như vậy, bàn cờ thể hiện chính xác vị trí của chúng tôi trên trái đất.

Koh chìa bàn tay đen, xòe ra chậm rãi, ý hỏi: “Nào, câu hỏi của ngươi là gì?”.

Nào, – tôi nghĩ, – tốt hơn hết là nên diễn đạt thật chuẩn.

Tôi vẫn chưa chắc chắn bà ta muốn giúp đỡ tôi đến mức nào. Tôi phải có được lời cam kết của bà ta. Nếu không thể xác định được tên doomster ngay lúc này thì bà ta nên dạy tôi cách chơi với chín viên đá. Và nếu cần phải có hai món thuốc để chơi được thì bà ta nên bảo tôi biết phải làm điều đó thế nào. Thế nhé!

– Người, bên cạnh tôi, – tôi nói, – xin hãy cho tôi biết làm thế nào để duy trì được nòi giống của những người cùng thời tôi qua mặt trời cuối cùng củab’ak’tun thứ mười ba, để tiếp tục tồn tại thêm mười ba b’ak’tun sau mặt trời đó.

Koh không tỏ thái độ gì. Nhưng sự im lặng kéo dài khiến tôi gần như chắc chắn là bà ta không bằng lòng. Không sao, bà ta không ném mình qua cửa đâu, – tôi tự nhủ. Im lặng.Im lặng.Im lặng.

Cuối cùng, Chim Cánh Cụt – như một số người lùn khác, dường như cô ta đọc được ám hiệu của Koh bằng ngoại cảm – hiện ra với một đống giỏ bằng vỏ liễu khác. Cô ta lấy một cái bình và một cây chổi sơn, quét một loại mỡ hay dầu gì đó lên bốn cạnh tường vây quanh bàn cờ chìm. Nó có mùi rất lạ. Tiếp theo, cô ta quét đến các cạnh của mấy hòn đá…

Ặc. Chóng mặt quá.

Lúc này, vị của nụ hôn đã lan khắp người tôi. Nó tanh như thịt cua và chua chua – tuy không bằng vị chua của kiến – và dưới cái vị đó là vị tê tê như cô-ca-in, và dưới nữa, ở cuối dư vị, phảng phất một vị không mấy tự nhiên, khiến tôi nhớ đến một loại đồ uống nhẹ mà người ta từng sản xuất hồi tôi còn nhỏ, một món đồ uống lạ đời, vị lai, tiền-kỷ-nguyên-thực-phẩm-tự-nhiên, đầy vị hóa học, không khác gì thuốc, nhưng tôi không nhớ tên nó là gì, hay nó là thứ gì, một thứ…

Tôi nói luyên thuyên đi tận đâu thế này?

Cô gái lùn đưa cho Koh một cái giỏ. Bà ta lấy trong đó ra một thứ be bé, ngọ nguậy màu nâu hơi hồng và đặt nó vào điểm chính giữa màu lục lam của bàn cờ. Nó nằm thu mình lại, quay đầu, nheo mắt nhìn quanh vì chói sáng. Đó là một con khỉ con, nhỏ hơn con chuột lang trong phòng thí nghiệm – chắc cao khoảng hai inch nếu đứng thẳng lên – và gần như trụi lông. Háng nó được tô hoặc nhuộm đen để trông giống mảnh vải khố, đầu nó được tô đen giả làm cái mũ chụp, tôi đoán là để cho giống người hơn. Trông nó không giống một đứa trẻ tí hon vì nó có sự cân đối của người trưởng thành. Tôi không dám nói chắc nó là loại gì, nhưng có thể là khỉ nhện, giống Ateles, một giống khỉ nhỏ, đen tuyền, ăn quả cây và gần như không bao giờ xuống đến tầng thấp của rừng rậm. Chúng sinh trưởng rất nhanh, vì vậy, con này hẳn là mới sinh nhưng lông đã bắt đầu ngả đen, và khi chạy hai vòng quanh bàn cờ, nom nó nhanh nhẹn không kém gì một con khỉ trưởng thành. Nó cố leo lên một cạnh tường, rồi lại cố tì vào hai viên đá chúng tôi đặt gần nhau để nhoi lên, nhưng lần nào cũng trượt xuống vì đá bôi mỡ trơn. Thế là nó thử nhảy, tôi cứ tưởng nó nhảy qua được gờ tường, nhưng nó chưa có đủ cơ bắp và khả năng định hướng như con trưởng thành nên không nhảy được quá độ cao gấp đôi chiều cao của chính nó. Cuối cùng nó dừng lại và đái vào giữa phần tư màu đỏ. Tôi nhìn không rõ lắm – phải cần đến kính lúp của thợ kim hoàn may ra mới nhìn rõ được – nhưng hình như nó là con đực. Nó ngước về phía chúng tôi với cặp mắt bé xíu và chưa học được cách tập trung. Nó rón rén bò tới góc giữa phần tư màu đỏ và phần tư màu đen, co mình nằm thu lu ở đó, run rẩy. Koh lấy một trong mấy chiếc chén nặn bằng sô-cô-la khô, chụp lên người con khỉ rồi di nó qua các vết lõm nông đến ô vuông trên phần tư màu trắng, tức là ngày hôm nay, cách ngày nhật thực trên mép của phần tư màu đen bốn hàng.

Dừng một lát. Tôi nhận thấy người tôi hơi bị vẹo sang bên trái. Đến lúc này, cái thứ phải gió mà bà ta nhè sang cho tôi đã đưa tôi đi quá cái ngưỡng mài sắc trí tuệ, đến tận ngưỡng mà tôi không thể nói cho các bạn biết tôi là ai được nữa – nghĩ đến đây, tôi thấy đó thật sự là một vấn đề. Mình chỉ được hưởng có một tẹo số thuốc mà bà ta đã nuốt thôi đấy, – tôi nghĩ. Lượng thuốc trong người bà ta hẳn phải đủ để giết chết một con cá voi xanh. Mà bà ta gầy guộc hơn tôi rất nhiều. Chả trách những người đếm mặt trời chín sọ phải làm quen với thứ thuốc này từ khi mới lên năm. Chắc bộ mặt tôi đang nhe nhởn một nụ cười đờ đẫn vì phê thuốc. Không khéo bà ta tưởng tôi dở người. Hừ, lần đầu tiên ai chẳng thế.

Chim Cánh Cụt đưa cho Koh chiếc hộp thứ hai. Nó có hình dáng của một căn lều vuông nhỏ với một búi dây rợ trên nắp. Lần này, bà ta đặt nó vào chính giữa phần tư màu đen, tháo một cái nút nhỏ và kéo một trong những sợi dây. Một cạnh của chiếc hộp kéo lên như cửa lồng dế của người Trung Quốc.

Koh xòe bàn tay đặt trước ô cửa.

Chúng tôi chờ đợi. Chuyện gì nữa đây? – tôi tự hỏi.

Một cặp râu dài chia đốt thò ra từ trong bóng tối, dừng lại, ngoe nguẩy ngược chiều nhau, lại dừng lại, rồi một chuỗi dài màu trắng lởm chởm trườn lên tay Koh. Đó là một con rết, nhưng không thuộc giống tôi có thể phân loại, một loại động vật biến thái cư trú trong hang động, một loài bạch tạng và không mắt, sống dưới hang đất sụt thiếu ánh sáng và có lẽ suốt từ thời cá tay vây mới gia nhập làng động vật có xương sống. Các phần mềm trên cơ thể con vật không có sắc tố và gần như trong suốt, nhưng quanh rìa các màng ki-tin có màu nâu giống như những chỗ phồng cháy xém của cái bánh trứng. Nó dài xấp xỉ mười hai inch, đủ để khiến người ta chú ý. Con vật nằm yên một lúc đủ lâu để tôi quan sát thấy nó có hai mươi mốt đôi chân và không có mắt, chỉ có bốn mẩu nhú ra ở nơi đáng ra là mắt. Hai cái răng nọc, hay chính xác hơn là chân nọc dài và hơi co vào như lưỡi kiếm cong của kỵ binh. Những cái gai – túc là lông cứng giúp phát hiện chuyển động – trên đôi râu phát triển rất lớn, không khác gì cành nhánh chĩa ra trên cây xương rồng cotillo (Một loại xương rồng khi không có hoa nhìn như xác cây khô,là thực vật hoang mạc đặc trưng của vùng tây nam nước Mỹ và bắc Mexico). Nhìn nó như một cái khóa kéo trên chiếc túi nhét căng khổ sở đủ thứ bên trong.

Nhanh như chớp, Koh đưa bàn tay trái thừa ngón ra tóm lấy đốt lưng thứ hai, tức là phần đốt ngay sau đầu. Bà ta đặt nó vào giữa một cái đĩa con và dùng ngón tay cái giữ nó nằm yên. Nó – hay ta nên gọi là “bà ta” vì Koh gọi thế – cố vùng vẫy thoát ra, đạp chân lên và cào xước cổ tay Koh.

– Bà ta đã sống được một k’atun và bảy tun, – Koh giải thích, – bà ta rất khôn ngoan.

Koh thả ngón tay cái ra.

Tôi cựa quậy trên hai cẳng chân khoanh tròn. Tôi chưa từng chứng kiến hay nghe nói chuyện này. Tôi cứ nghĩ Koh sẽ chỉ đơn giản lôi ra những viên đá và hạt của bà ta rồi bắt đầu chơi luôn. Hừ, ai mà nghĩ ra được chuyện này.

Koh gõ móng tay xuống cạnh con rết, dường như đang giao tiếp với “bà ta” bằng thứ ngôn ngữ riêng của sự rung động. Động tác đó hình như khiến một mấu xúc giác nghển lên nghe ngóng. Cuối cùng, “bà ta” thả lỏng người ra một lúc và ngước “nhìn” chúng tôi. Tôi có ấn tượng rờn rợn là “bà ta” ngửi thấy chúng tôi. “Bà ta” trườn hai vòng quanh lòng bàn tay Koh và cuộn mình lại thành một hình xoắn ốc. Koh nói với “bà ta” với giọng khe khẽ bằng một thứ tiếng lạ, toàn nguyên âm sát vòm miệng và âm huýt gió. Tôi cúi xuống qua gần, con vật liền quay lại và bật những cái tua xúc giác trên miệng thẳng vào mặt tôi với hai tiếng tách.

– Cột sống ngươi phải ngả về phía tây bắc, – Koh nói, ý bà ta là tôi phải ngồi lui ra sau một chút. Tôi làm theo. Tôi nghĩ bà ta hơi cười tủm trước rắc rối nho nhỏ với món thuốc của tôi. Mắt tôi chắc nhìn như mắt một thằng nhãi mười hai tuổi sau hơi thuốc đầu tiên trong đời. Ừ, buồn cười lắm đấy!

Koh đặt bàn tay xuống gần cạnh đông nam của bàn cờ. Con rết trườn khỏi lòng bàn tay bà ta như một giọt thủy ngân và chiếm lấy góc đó. “Bà ta” tìm vị trí thích hợp và an vị. Xem ra “bà ta” rất quen với bàn cờ.

– Thứ lỗi cho tôi, hãy dẫn đường cho tôi, hỡi vị khách quý, – Koh lầm rầm. Nhanh như cắt, bà ta chụp lên cái chén thứ hai lên người con rết. Tôi chợt nhớ đến kỉ niệm chẳng mấy dễ chịu về những trò giải trí nho nhỏ mà mấy thằng anh nuôi ở Utah của tôi bày ra. Những trận giác đấu trong thùng gỗ giữa thằn lằn đuôi dài và chuột bạch. Koh đặt bàn tay trắng lên chiếc chén đậy con rết và bàn tay đen lên chiếc chén đậy con khỉ.

– Hơi thở của con màu đen, hơi thở của con màu vàng,

Hơi thở của con màu đỏ, hơi thở của con màu trắng,

Và bây giờ, là màu lục lam

Koh nói rồi mở cả hai chiếc chén.

Chẳng có gì nhúc nhích. Tôi ngồi nhìn con rết lâu đằng đẵng như hàng tuần, hàng tháng, rồi hàng năm. Cuối cùng, hai sợi râu của “bà ta” cũng động đậy, ngóc lên và khoa lên một đường vòng cung khoảng 150 độ, đập đập xuỗng như thanh gõ của người chơi đàn mộc cầm khi chạm vào mặt đàn. “Bà ta” dừng lại. “Bà ta” cảm thấy điều gì thì phải – tôi nghĩ. Liệu có phải bàn cờ này giống một thiết bị ghi địa chấn? Phải chăng con rết đang cảm nhận chuyển động lên xuống và dòng chảy của nham thạch sâu hai dặm dưới chân chúng tôi? Phải chăng nó đang đo lực hút của mặt trăng?

Hai con vật đang đứng ở hai rìa xa nhất của bàn cờ, và do các hòn đá chặn giữa nên chúng không thấy được nhau. Thế nhưng, con rết rung rung sợi râu, định hướng và thận trọng trườn ba bước về hướng đông, vuông góc với vị trí của con khỉ, vừa trườn vừa thăm dò bề mặt của phần tư màu đỏ. Qua cách “bà ta” giữ thăng bằng khi trườn qua các ô lõm, có thể thấy “bà ta” rất quen đường. Con khỉ đờ người ra. Sắp có chuyện gì đó.

Tính về kích thước, con rết có lợi thế hơn. Nhưng tôi đã từng chứng kiến khỉ rú giết chết được cả những con rắn to hơn chúng. Và nếu con khỉ quyết định không đánh nhau với con rết, nó chỉ cần chạy là xong. Con rết lại còn mù nữa. Vì vậy, tôi đoán rằng, một lần nữa, sự thể sẽ không dành cho loài không xương sống.

Con khỉ quay đầu sang bên trái, rất khẽ khàng, và con rết cũng ngóc cái đầu ngực về phía ấy. Thật khó tin là con khỉ gây ra tiếng động. Nhưng tổ tiên của con rết sống dưới lòng đất đã lâu, chúng học được cách nắm bắt những rung động nhỏ nhất. Sau một lúc lâu không động tĩnh, con khỉ rón rén bước sang trái, tìm đường chạy sang phía nam. Con rết phản ứng ngay tức thì. Con khỉ dừng lại một chút rồi len lén bước tiếp. Tôi đếm bốn nhịp và con rết bắt đầu chuyển động, thoạt tiên nó chỉ nghoe nguẩy tại chỗ, rồi mới lén lút trườn về phía nam, vuông góc với con khỉ, những cái chân chạm xuống bề mặt bàn cờ như những đợt sóng uốn lượn. Tôi nghĩ mình nghe thấy cả tiếng của lớp vỏ ki-tin đập xuống mặt đá và phân biệt được những tiếng đập khác nhau. Con rết đã đến bên cạnh hòn đá đặt ở vị trí của “ngày hôm nay”, đôi râu vươn sang thăm dò phía bên kia hòn đá, suy tính nhanh chóng. Tôi nghĩ đến bức ảnh chụp Marena vừa leo lên vách núi vừa sờ những khe nứt phía trên. Con khỉ bò đến gần hơn. Con rết bắt đầu trườn nhanh, như thể đang nuốt dần quãng đường phía trước, rồi đứng khựng lại, dùng đôi râu hít hửi không khí. Nhìn nó như một cái miệng đang há ngoác với hàm răng chìa ra ngoài, cái nhe nanh khát máu của con báo Cheshire (Lấy theo hình ảnh con mèo Cheshire trong mẩu truyện “Alice ở xứ sở diệu kỳ”, một con mèo có khả năng tàng hình, chỉ hiện ra mỗi cái miệng, ý diễn tả hình ảnh chỉ có cái miệng nhe nanh mà không có con báo). Con khỉ nhảy một bước ngắn sang trái, ra khỏi chỗ nấp sau viên đá.

Con rết đứng yên không động đậy.

Con khỉ đã nhìn thấy “bà ta”. Nó cũng đứng sững lại.

Nó có biết “bà ta” là cái gì không? Mọi động vật có vú đều có bản năng sợ những vật có hình dáng chia khúc. Nhưng mặt khác, loài khỉ, kể cả những giống chuyên ăn quả như khỉ nhện, cũng ăn rất nhiều sâu bọ. Và con khỉ này không chỉ có vẻ đói. Nó thực sự đói ngấu. Cặp mắt nó nheo lại, và qua ánh thèm khát trong đó, anh có thể nói chắc nó đang bị bỏ đói gần chết, nó sẽ tấn công bất cứ thứ gì có thịt. Liệu nó sẽ tóm lấy đuôi con rết và quật đầu “bà ta” vào hòn đá, hay sẽ cào xé cho đến khi con rết đờ ra, như loài cáo vẫn làm với bọ cạp?

Nó quan sát “bà ta”. Con rết lại trườn lên phía trước, rất thận trọng, vào phần tư màu vàng và xoay xuôi chiều kim đồng hồ về phía phần tư màu đỏ. Cơ thể căng cứng của con khỉ không động đậy, nhưng cặp mắt đó dõi theo. “Bà ta” bò sang phần tư màu đỏ. Con khỉ chuyển trọng tâm cơ thể. Bất thình lình, con rết lao bắn về phía trước, nhanh đến mức không mắt nào có thể theo kịp. Con khỉ giật mình và nhảy bắn sang một bên, gần như giật lùi và thu mình sau một viên đá. Con rết trườn chậm lại và quay đi.

Hai bên cùng cảnh giác. Tôi đếm năm nhịp, rồi mười nhịp. Con khỉ bò lùi về phía sau, giữ sao cho hòn đá chặn giữ chúng. Đến nhịp thứ mười bốn, hoạt cảnh tĩnh chuyển sang động. Hai chiến binh lao bổ vào nhau ngang qua bàn cờ, hệt như viên bi va đập giữa hai quả đấm trong trò bắn đạn, hoặc như cảnh quay các hạt hạ nguyên tử chuyển động trong thiết bị nhận dạng hạt phóng xạn ion hóa. Tôi có ấn tượng rằng con khỉ đang rượt đuổi con rết.Quanh một bụi nho (Lời một bài hát kể chuyện con khỉ đuổi bắt con chồn) – tôi nhẩm trong đầu. Rồi hình như con rết lại quay ra rượt con khỉ, chúng chạy gần như ngược chiều kim đồng hồ qua trận đồ đá gần như tạo thành một đường đua chướng ngại. Cứ sau mỗi vòng đua, con rết lại tiến sát hơn đến con khỉ. Lúc này,con khỉ đang ở trong phần tư màu đỏ, con rết cũng lao vào phần tư màu đỏ, rồi sang phần tư màu trắng, con khỉ tiếp tục nhảy ngang qua bàn cờ vào phần tư màu đen với con rết bám ngay sau lưng, cuối cùng, “bà ta” không đuổi theo nữa mà quay ngược lại,chạy về đằng sau, như thể “bà ta” đoán được con khỉ sẽ chạy đến chỗ nào, và trước khi tôi kịp nhận biết chuyện gì xảy ra, con rết đã dồn được con khỉ vào sát một viên đá. Nhưng rồi con khỉ luồn được ra sau lưng con rết. Nó lừa được “bà ta” cơ đấy – tôi nghĩ thầm. Con rết đứng khựng lại. Con khỉ xem ra đã lấy lại được dũng khí. Nó chồm lên, tóm lấy khúc đuôi con rết, định nhấc lên để đập vào hòn đá, nhưng trước khi nó nhấc được “bà ta” lên khỏi mặt bàn cờ, đầu “bà ta” đã vòng ra sau lưng nó. Tôi có cảm giác là con rết sắp đặt tình huống này, “bà ta” đã nhìn thấy trước sự việc. “Bà ta” quấn xiết lấy mình con khỉ và cắm những cái chân nọc như lưỡi dao vào thớ thịt sau gáy con khỉ.

Con khỉ vùng ra, nhảy lùi về phía sau và sảy chân suýt ngã. Hiển nhiên nó đã bị trúng độc. Nó cố chạy về phía tây, bò bằng cả tứ chi, nhưng đến vị trí của ngày Sậy 8, hai tay nó trượt đi trên mặt đá. Nó lảo đảo chạy qua viên đá Sao Kim và quay lưng về hướng bắc. Nó chạy được tới ngày Gió 13. Với kinh nghiệm mấy chục năm chơi cờ hiến tế, tôi có thể cảm nhận được, tuy không thể lý giải vì sao, rằng sự hoảng sợ của nó có liên quan tới điều gì đó rất quan trọng trong cách bố trí bàn cờ này.

Tôi nhìn lên Koh. Bà ta theo dõi cảnh tượng này với ánh mắt chăm chú mà tôi phải gọi là tóe lửa. Bà ta đang chuẩn đoán điều gì đó qua sự hoảng hốt của con khỉ.

Con rết nằm yên, chờ đợi. Tôi nhận thấy “bà ta” đang ngồi ở chính giữa bàn cờ, trên điểm màu xanh lục đánh dấu vị trí ngày 0, đồng thời tượng trưng cho Teotihuacán theo cách bố trí bản đồ thế giới của bàn cờ này. Sau ba mươi giây, chuyển động của con khỉ bắt đầu cứng đờ ra, nó kéo lên người về phía trước, chạy xa khỏi con rết. Đến lúc này, chắc nó không thể còn nhiều cảm giác đau, – tôi nghĩ, – chỉ còn thấy lạnh cóng thôi. Hai phút sau, nó đã ở rìa bên kia của phần tư màu đen. Nó ngã sấp mặt xuống, cứng đờ như một bức tượng. Nó vẫn cử động được hai bàn tay, nhưng phần còn lại từ dưới cổ đổ xuống bị tê liệt. Con rết tiến lại gần nó, lần này bình thản hơn nhiều, những cái chân rướn lên đặt xuống chậm rãi như cái mái chèo trên thuyền lớn. Khi đến nơi, “bà ta” dùng đôi râu lông lá đập những nhát dài và khéo léo xuống để khám xét con khỉ. “Bà ta” quấn lấy người nó. Nó bị xiết chặt nhưng hai tay vẫn nắm được hai chân con rết, cố đẩy nó ra. Hai con vật nhỏ bé, nhưng cảnh tượng thì thật bi tráng, cho ta cảm giác hệt như đang chứng kiến cảnh thánh George tiêu diệt rồng. Con khỉ bắt đầu rú lên.

Tiếng rú cao đến mức suýt ra khỏi ngưỡng nghe của tai người, chói như tiếng lưỡi dao kim cương cắt ngang qua tấm kính. Nó nhỏ thôi, nhưng xuyên thấu đến mức tôi chắc chắn cả Hun Xoc và những người còn lại ngoài sân đều có thể nghe thấy, thậm chí Bị Thương 14 ở bên kia thành phố cũng nghe thấy, ở tận Ix, tận Cực Bắc, tận Sao Hỏa cũng nghe thấy. Sau một trăm linh tư nhịp, tấm gương dường như đã bị cắt vụn, tiếng rú dừng lại, rồi lại váng lên, rồi lại ngắc lại, cuối cùng, con khỉ chỉ còn rú không thành tiếng với cái miệng há hốc, cứng đờ, hai vành môi vén lên để lộ những cái răng bé xíu nhăn ra. Sau ba trăm nhịp, người nó phù lên vì nọc tiêu hóa nhưng vẫn còn co giật. Con rết bắt tay vào đánh chén, cặp hàm nhỏ xíu và những cái xúc tu quờ quạng khắp người con khỉ, lên xuống, lên xuống, như đứa trẻ con gặp bắp ngô, “liếm” nó, phết lên nó một lượt nước bọt, sền sệt. Rết là loài ăn thịt theo lối rất bẩn, và chẳng mấy chốc, con khỉ đã bóng lên với thứ nước đó và thêm cả một vũng trong trong đọng ở dưới. Sau sáu mươi ngàn nhịp, các chất en-zim của con rết đã phân hủy được phần lớn cơ và nội tạng của con khỉ khiến nó nhìn như một bộ da bọc nước, chẳng hề giống một sinh vật vừa mới đây hẵng còn sống. Con rết gặm từ gốc cổ con khỉ, xuyên qua hộp sọ mềm nhũn vào đến óc, sau đó gặm ngược xuống thân. Chúng tôi quan sát trong sự im lặng đến nghẹt thở. Đồng tử của Koh giãn ra đến mức màu nâu của mống mắt nom hệt như quầng sáng quanh mặt trời khi bị mặt trăng che khuất. Con rết lật xác con khỉ lại bằng những động tác giật nhanh, khéo léo và rất kiểu cách rồi bắt đầu quết tiếp nước bọt lên dạ dày nó. Tôi tính ra chỉ mất có một tiếng bốn mươi phút để con khỉ biến thành một đống xương và răng.

Tôi liếc sang Koh. Bà ta cũng đang quan sát tôi bằng một mắt, mắt kia nhìn con rết. Ái dà, – tôi nghĩ. Nói chuyện với một người với ánh mắt không tập trung có thể khiến anh thấy chưng hửng. Nhưng khác với những người trong tình trạng đó, dường như Koh có thể điều khiển hai con mắt một cách độc lập. Tôi lại nhìn xuống bàn cờ. Mãi chẳng có gì xảy ra. Vừa lúc tôi tưởng mọi chuyện đã chấm dứt và chúng tôi đang bị ướp xác tại chỗ thì hình như Koh động đậy. Tôi ngước lên. Chẳng có gì cả. Tôi nhìn xuống con rết. Có điều gì đó không bình thường.

Con rết căng thẳng, như thể linh tính thấy kẻ thù. “Bà ta” quay phắt đầu sang trái, rồi sang phải, đớp đớp bộ hàm hai lần và có vẻ hoảng hốt. “Bà ta” chạy xuôi chiều, rồi ngược chiều kim đồng hồ, trườn qua ô màu đỏ, rồi màu vàng, đến b’ak’tun thứ tám, rồi lại rẽ sang phải, lao về ô phần tư màu đen, lao tiếp về ô màu trắng, quay về ô màu vàng, lần này hết sức cuống quýt, đến b’ak’tun thứ mười ba, chạy đi chạy lại, đến tương lai, về quá khứ, trườn qua trườn lại ở hiện tại, và cuối cùng, ở điểm chính giữa ô phần tư phía bắc, tương ứng ngày Đêm 14, “bà ta”cắm đầu xuống và xoay tròn ngược chiều kim đồng hồ. Không rõ tại sao, trong đầu tôi bỗng hiện lên từ “ĐIÊN”. Khi quay đến vòng thứ hai mươi tám, có vẻ như “bà ta” đã đi đến quyết định, “bà ta” đứng khựng lại, đuôi ngỏng lên, đôi râu rung rung, chân dậm xuống nhanh một cách không bình thường. Trong tiếng Ix, có một câu thành ngữ nói rằng: anh không bao giờ có thể chuyển động nhanh hơn cái rùng mình trước khi chết.

Con rết trườn bốn bước ngập ngừng về hướng bắc, sau đó là bốn bước chậm chạp về hương đông nam, rồi rùng mình đứng lại bên một ô, nơi các hòn đá đánh số thể hiện ngày Chuyển động 12,Ngọc lam 5 thuộc k’atun thứ bảy, b’ak’tun mười hai, tức ngày mùng 3 tháng 12 năm 1773. Đó là năm xảy ra vụ động đất phá hủy toàn bộ Antigua khi nó còn là thủ đô của Guatemala. Tôi có nên kể chuyện này ra không nhỉ? Hay Koh biết rồi? Tôi quyết định không nói gì nếu không ai hỏi. Con rết lại tiếp tục trườn lên phía trước, loạng choạng (nếu có thể loạng choạng với bốn mươi hai cái chân) đến Etz’nab 2, K’ank’in 1, tức ngày Lưỡi Dao 2, Xương Vàng 1, cách ngày tận thế hai ngày.

Hiển nhiên con rết đã bị trúng độc bởi con khỉ, hoặc thứ gì đó mà người ta dùng để nuôi con khỉ. “Bà ta” quằn quại, hết co lại duỗi, lăn ngửa ra, lại co, lại duỗi, rồi lật úp người xuống . “Bà ta” tự cắn vào bàn chân thứ 18 bên trái. Những mẩu thịt trăng trắng phèo ra qua các khe của bộ xương ngoài. Hơi nước phun ra qua chân nọc khí “bà ta” phun chất độc thần kinh ra ngoài không khí. “Bà ta” lại vật ngửa ra, tự cào xé mình. Một vết nứt toác ra ở giữa lưng và há rộng dần, lớp biểu bì của từng khúc thân lần lượt rách dần. “Bà ta” đang lột xác.

Động vật chân đốt lột xác nhờ lực nhu động. Cảnh một con nhện lột xác nom giống như một bàn tay tự rút dần ra khỏi găng. Các giống côn trùng thì có xu hướng xé toạc một nhát toàn bộ lớp vỏ. Rết thì co duỗi người, như bàn chân rũ chiếc dép lê xuống vậy. Thông thường, việc lột xác làm lộ ra toàn bộ lớp thịt bên trong và con vật nhìn như mới được sinh ra một lần nữa. Tôi nhớ rằng ai đó – có lẽ là mẹ tôi, hoặc mẹ Chacal – từng bảo rằng nếu chúng ta cũng biết lột xác, chúng ta sẽ không bao giờ phải chết.

Thế nhưng, lúc này, con rết đang phải lột xác khi chưa đến lúc. Bộ xương ngoài dưới lớp ” bà ta” đang lột vẫn chưa hình thành, mới chỉ có những tế bào biểu bì sống đang sủi lên các bọt bong bóng huyết tương. Thực chất, con rết đang tự lột da sống mình. “Bà ta” lăn lộn, vật vã trên nền đá, rõ ràng là đau đớn cực độ. Từng mảng vỏ ki-tin bong ra và rơi xuống bàn cờ với những thớ thịt trắng bàm ở mặt trong. Phần bụng của hai đốt cuối chuyển động, hay có thể nói là cuộn lên rồi rơi ra… nhưng hình như hai mẩu thịt đó vẫn cựa quậy, không, chúng là những vật nhỏ đang chuyển động… giòi chăng? Không, đó là hàng trăm con rết bé li ti màu trắng trong suốt, mỗi con chỉ bằng một mẩu dừa khô nạo mà trước đây người ta vẫn rắc trên kem tráng miệng. Tôi nhớ là loài rết đẻ trứng, nhưng rõ ràng giống này khác. Lũ rết con trườn, và vươn, và uốn éo, và túm tụm lại quanh những tảng thịt của con mẹ, liếm sạch trơn số nước mủ chảy ra. Cuối cùng,con mẹ uốn cong người thành một vòng tròn, tự giày xéo cái xác của mình cho đến khi chỉ còn là một đống bầy nhầy sũng nước nằm ở ngày Sọ 9, Gió 11 trên phần tư màu trắng của bàn cờ. Cuối cùng, chỉ còn đôi râu của “bà ta” động đậy, lờ đờ vẽ thành hình số tám trong không khí. Trong vòng một ngàn nhịp sau đó, những con con cũng dần chết theo. Những ngón tay của Koh từ trên cao thò xuống. Mấy cái móng chạm vào con rết tả tơi. Bà ta nhấc cái xác lên – con rết cứng đờ như một mẩu thịt muối rán cháy – và đặt quân cờ bằng ngọc mắt mèo của mình và chỗ đó. Bà ta vun những mẩu còn lại của con khỉ và cái xác lòng thòng của con rết vào một mảnh vải bông mới. Cô gái lùn chìa ra một cái hộp nặn bằng đất sét. Koh quấn tấm vải quanh xác hai con vật và đặt cái bọc vào hộp,nói với nó vài câu ngắn gọn bằng hai thứ tiếng khác nhau.Cô gái lùn cất cái hộp đi, chắc là để mai táng trọng thể. Trước khi tôi kịp hiểu ra Koh làm gì, bà ta đã cất chín viên đá lớn đi và bắt đầu rải sọ, tức là các hòn đá, lên các ô mà hai con vật đã chạy qua, và lầm rầm bằng thứ ngôn ngữ cổ xa lạ kia. Tưởng như bà ta dừng đến hàng phút trước khi rải thêm một viên đá và tôi phải tự nhắc mình rằng bà ta đang cử động với nhịp độ bình thường, chỉ là tôi đang suy nghĩ nhanh hơn thôi.

Vậy mà cuộc chiến giữa hai con vật diễn ra nhanh đến mức tôi chỉ vừa kịp theo dõi. Còn Koh không chỉ theo dõi, bà ta còn nhớ được toàn bộ đường chạy rối rắm của con rết và con khỉ, và nhớ rất chính xác. Bà ta đánh dấu lại nó bằng một chuỗi các dấu hiệu, đặt những viên đá có hình thù khác nhau vào những vị trí xảy ra những sự kiện khác nhau: một viên dẹt hình bầu dục tại nơi con rết tấn công lần đầu, một viên hình cái nêm tại nơi con khỉ bỏ mạng, một viên hình cầu gần như hoàn hảo tại nơi con rết bỏ mạng. Đây là một trong những sự thể hiện trí tuệ phi thường nhất tôi từng được chứng kiến, mà tôi cũng chỉ được chứng kiến có vài lần. Tôi không nắm bắt được phải đến tám mươi phần trăm diễn biến. Tôi cược rằng bà ta có thể xem một đoạn băng mười phút ghi lại hình ảnh những quả bóng lăn trên sàn bi-a và phác lại được lại toàn bộ các đường bóng.

Cuối cùng, Koh vỗ tay xuống bàn cờ năm lần và dốc ra một cái túi đựng những viên đá nhỏ. Không viên nào giống viên nào. Vài viên phẳng bẹt một mé như viên kẹo gôm. Mỗi viên tượng trưng cho một hành tinh hoặc một ngôi sao lớn. Bà ta chọn ra những viên đại diện cho các ngôi sao đang xuất hiện trên trời vào đúng lúc này và cất số còn lại vào túi. Bà ta bày bản đồ sao của đêm nay lên bàn cờ, lần này hơi khác đi, với Chúa Tể Cuối Cùng Của Đêm Tối thấp xuống một chút về hướng tây và vị trí xuất hiện lần đầu của Người Chế Ngự Mặt Trời, tức là sao Kim, ở hướng đông. Viên đá mà bà ta dùng làm mặt trăng là đá hidrofan, một loại ngọc mắt mèo, nhẵn hình cầu. Ở châu Âu thời Trung cổ, người ta gọi nó là Con Mắt Của Thế Giới.

Koh lầm rầm:

– Hướng màu đen, ta xin từ biệt hang của người chết,

Hướng màu vàng, ta xin từ biệt hang của hơi thở,

Hướng màu đỏ, ta xin từ biệt hang của những người chưa ra đời

Hướng màu trắng, ta xin từ biệt hang của sự hư vô.

Ta rải những hạt đen và hạt vàng,

Sọ đen và sọ đỏ,

Còn đây, sọ lục lam của riêng ngươi,

Chính là ngươi,

Và chúng ta bắt đầu.

Bà ta đặt xuống một viên đá màu xanh lục và di chuyển nó về phía trước, đi xuống phía tây, đi lên phía đông, quay về nơi các con đường cắt nhau,đến cạnh Cây Cá Sấu (Theo quan niệm của người Maya, Cây Cá Sấu là hình ảnh tượng trưng cho dải thiên hà với trung tâm nằm trên miệng con cá sấu), đi qua Bốn Trăm Gã Trai, tức là chòm Tua Rua, dọc theo con đường trắng dài của ruột rắn, qua các bệ đá lò sưởi, tức vành đai của chòm Thợ Săn, rồi đi tiếp về phía nam, hướng đến ngôi Thiên Lang và Mirzam – ngôi sao mà người Maya chúng tôi gọi là Chúa Tể Thứ Hai Của Đêm Tối, vừa đi vừa để lại phía sau một mạch đá dài đánh dấu những nếp gấp của thời gian. Bà ta di chuyển rất nhanh nhưng tôi cũng theo được mà không gặp khó khăn gì. Thực ra, tuy bộ não của Chacal không có những liên hệ với trò chơi như bộ não của Jed, nhưng tôi vẫn đưa ra được cách giải quyết nhờ vào kinh nghiệm tích lũy được từ các ván cờ trước đây tôi từng chơi. Và tôi không hẳn thấy mình suy nghĩ mạch lạc hơn. Cảm giác này khác, một cảm giác đặc biệt của loại ma túy gây xáo trộn không gian. Nó không cho anh cảm giác giống như đang bay qua không gian, mà khiến cho anh thấy mọi không gian hợp nhất thành một, hoặc cả thế giới cuộn lại thành một quả bóng trên tay anh và nếu anh xoay nhẹ nó đi một cái, anh sẽ đến bất cứ nơi nào mình muốn… hoặc có lẽ sẽ chính xác hơn nếu nói rằng thế giới như một cỗ bài, anh có thể kéo các không gian cách xa lại gần nhau chỉ bằng cách tráo bài, anh có thể thả tõm Sri Lanka vào giữa Oklahoma (Một bang miền nam của Hoa Kỳ) hay trút tinh vân Trifid xuống căn phòng này.

Koh đặt chín viên đá trắng xuống và bắt đầu đuổi theo quân chạy. Nó đã chạy tới mặt trời cách hôm nay tám ngày, tức ngày nhật thực. Bà ta nói ở đó có mùi hơi ảm đạm và rằng sẽ có một k’ii xảy đến với tôi vào ngày hôm đó. K’ii nghĩa là mánh khóe hoặc chiến thuật, ý nói tôi sẽ tìm ra cách để xoay chuyển tình thế. Và k’ii đó có tên ghép là “chaat ha’ anachan”.

Chaat có nghĩa là Gió Tây Bắc, rất khô, nóng và được mặc định là màu đen. Hoặc cũng có thể chỉ là gió nói chung. Anachan nghĩa là một thành phố chết, tức là một thành phố theo kiểu Maya thu nhỏ dành riêng cho người chết. Chúng tôi đã đi qua hàng trăm thành phố như vậy trong suốt cuộc hành trình mệt mỏi trên bộ từ San Martín đến đây. Ngoài ra, bụi quá dày đặc (theo cách nói của Koh) khiến bà ta nhìn không rõ thêm gì nữa.

Gió trong nghĩa địa à, – tôi ngẫm nghĩ, – hừmm.

‘- Năm mặt trời, mười bốn mặt trời và ba mươi mặt trời,

Năm mươi nhăm mặt trời, chín mươi mốt mặt trời và một trăm mặt trời…

Cứ đặt được hai mươi viên đá, Koh lại cầm lấy viên đầu tiên và tiếp tục di chuyển, giống như một người leo núi, trước tiên anh ta chăng một sợi dây cáp an toàn, leo qua, chăng một sợi thứ hai, rồi lại leo ngược xuống để gỡ sợi thứ nhất. Lúc trước, tôi cứ tưởng bà ta sẽ dùng một cái kẹp gắp để di chuyển xa phía bên kia bàn cờ, nhưng thay vào đó, bà ta vươn người sang. Tôi nhìn thấy gần hết bộ ngực. Có những thứ chẳng bao giờ thay đổi. Tôi lại thấy muốn một nụ hôn nữa của Người Nhện. Có lẽ bộ da nửa đen nửa trắng cũng là một kiểu đáng yêu. Bà ta có vấn đề gì đâu nào. Chẳng phải chỉ là tăng sắc tố mô thôi sao? Chỉ là tăng sắc tố do thiếu cân bằng hoóc-môn thôi. Hay là bệnh bạch biến thật nhỉ? Hay sạm da? Hay suy tuyến thượng thận? Hay nhiễm sắc tố sắt? Hay thiếu máu cơ? Hay khô da sắc tố…

– Mặt trời không, – Koh nói. Bà ta đã đến ngày tương ứng nơi con khỉ bị giết. Nhưng bà ta không dừng lại. Thay vào đó, không hề lưỡng lự, bà ta tiếp tục di chuyển các viên đá, như thể con rết vẫn đang truy đuổi con khỉ trong một chiều không gian Kaluza-Klein (Học thuyết liên quan đến không gian đa chiều do nhà bác học Theodor Kaluza đề xuất) đã sập nào đấy. Một vài ô đã gần như kín đặc đá. Giá chỉ có một hoặc hai quân chạy thì tôi còn theo dõi được. Nhưng như tôi đã nói, cứ thêm một quân chạy, độ khó lại tăng lên gấp nhiều lần. Một ván cờ với chín quân chạy không chỉ khó hơn một bậc so với ván cờ tám quân. Thậm chí cũng không chỉ khó hơn gấp chín lần. Mà 9!, tức 9 x 8 x 7 x 6 x 5 x 4 x 3 x 2, hay 362.880 lần khó hơn.

– 14, 51, 124, 245, – Koh lẩm nhẩm. Bà ta nhìn rất xa về tương lai rồi quay ngược lại. Bà ta lần ngược đường về tận ngày Kaban 5, Chen 15, 8.14.17.7.17, một ngày mà cuốn Thư tịch có nhắc tới, là ngày A’K’aakan, tức Al Mirador (Một thành phố thời tiền Columbus của người Maya, nay thuộc địa phận bang El Petén, Guatemala), sụp đổ, sau đó, bà ta quay lại và đi tiếp theo con đường đến tương lai, tiến thêm 394 ngày, tới rìa của phần tư màu đỏ, tương ứng với ngày thành Ix ra đời. Có điều gì đó rất đáng chú ý trong con đường vòng vèo mà bà ta đi, cách nó trở đi trở lại, vòng từ chỗ này tới chỗ khác như dệt thành một họa tiết hình bông hoa, họa tiết đó cứ lặp đi lặp lại, nhưng mỗi lúc một mở rộng hơn… song dù thế nào, nó vẫn luôn có cùng một độ cong như thế, và tôi có cảm giác là lạ về đường cong đó, dường như nó đang cắt xuyên qua đám mây hình nấm của hậu quả và bập vào đến căn nguyên bên trong như con dao cắm phập vào hạt đào.

– Khi chúng đến những nơi và những mặt trời xa lạ với ta, – Koh nói, – ta sẽ kể cho ngươi những gì ta thấy ở đó và ngươi sẽ cho ta biết tên của chúng.

Tôi ra hiệu đồng ý. Cách làm mà bà ta vừa nói không có gì khác thường. Thực tế, việc này đã có tiền lệ trong nghi thức của trò chơi. Chẳng hạn, một khách hàng xem bói có thể hỏi người đếm mặt trời rằng chuyện gì sẽ xảy ra trong chuyến đi sắp tới của anh ta. Nếu anh ta hỏi về nơi anh ta đã từng đến nhưng người đếm mặt trời thì chưa đến bao giờ, người đếm mặt trời sẽ dự đoán cho anh ta những điểm chính yếu nhưng đồng thời yêu cầu anh ta giải thích những điểm cụ thể.

– Ba trăm chín mươi nhăm, năm trăm linh sáu, – bà ta lẩm nhẩm. Bà ta tiến một bước thêm năm mươi hai năm về tương lai, rồi một bước nữa, một bước nữa, một bước nữa. Tia chớp lóe lên dưới da tôi như một luồng điện áp tĩnh chạy quanh quả cầu Van de Graaff (Một thiết bị phát tĩnh điện). Koh tả lại cảnh những thành phố đẹp đẽ bị nổ tung, hóa thành rừng rậm và tôi lần lượt hình dung ra chúng như một đoạn băng tua ngược cảnh những bông pháo hoa đỏ bắn lên trời xanh, Ix, Axcalamac, Yaxchilan, Bonampak, Palenque, Kaminaljuyu, Ti ak’al, Uaxactun và Tonil, tất cả cùng tan rã theo làn sóng lan ra từ tàn tích của Teotuhuacán. Những ngón tay của Koh nhảy về phía trước, mỗi lần đập xuống là một lần đặt một hạt sọ vào ô tiếp theo, để lại một vệt dài, nhưng là vệt dài phía trước những hạt sọ và lớp lông chim trên mặt bàn cờ dệt thành những quả cầu pha lê cho ta thấy lịch sử. Thêm nhiều thành phố khác hiện lên ở hướng bắc: Kan Ec, Pink Mountain, Tula, Flint Lake, Chichén, Kabah, “Giếng hẹp không bao giờ cạn”, Uxmal và Mayapan. Tiếp đó, sau thời điểm bắt đầu của b’ka’tun thứ mười, những quần thể kim tự tháp lại kết tinh thành hình ở vùng hồ, gần trung tâm của bàn cờ, nhưng nằm về phía tây nam của tàn tích Teotuhacán: Tlaxcala, Tenochtítlan và hàng trăm thành phố khác của đế chế Aztec. Vô số hàng lính nối đuôi nhau như những con kiến gác tổ, ào ào tiến ra khỏi các thành phố thủ phủ và đi khắp Mesoameria. Tôi liếc nhìn Koh. Bà ta đang cố gắng hết sức mình để đưa tôi đi xuyên qua dòng lịch sử, như thể đang cõng tôi trên lưng mà lướt trên dòng nham thạch. Nếu anh chơi cờ vây hoặc cờ vua, hoặc chỉ chơi Neo-Teo hay bất cứ trò gì khác trong số các trò chơi điện tử đời mới, miễn sao không quá dễ, anh sẽ hiểu được cảm giác, hiểu được sự đau đầu nhức óc khi phải để ý quá nhiều thứ cùng một lúc. Hoặc cũng vậy nếu anh là một vận động viên. Khi anh rướn sức lần cuối và anh nghĩ mình không thể làm được, nhưng rồi anh làm được, anh vượt qua cái ngưỡng đó và lên đến nơi nhưng chẳng có cách nào xuống được, anh liền phát hoảng và gào lên gọi nhân viên y tế. Koh ghi nhớ trong đầu hàng ngàn sự kiện có thể xảy ra và quan sát chúng trải rộng quanh viên đá tượng trưng cho chính mình, sau mỗi bước đi, bà ta lại chọn lấy một trong số chúng. Những chiếc xuồng to bằng cả một thành phố từ biển khơi lướt vào cái đáy màu đỏ của bàn cờ. Bà ta lại nhìn thấy bọn người cá cháo, thấy mụn nhọt đen mọng tóe ra từ một tấm da thuộc rộng hàng dặm vuông, thấy những lá phổi phập phồng bám đầy ghẻ mủ, thấy những thây người chết rũa quá nhanh đến mức chẳng kịp chôn. Bà ta di chuyển quân cờ đến năm 1518, năm Hernán Cortés đặt chân đến nơi ngày nay là Mexico City, cách phế tích Teotihuacán chỉ vài dặm. Những thành phố trắng nổi lên giữa lòng hồ rụi đi trong đám lửa. Bà ta đi tiếp.

– Gió 9, ý nghĩ 10, k’atun mười sáu, – bà ta thông báo. Đó là ngày mùng 4 tháng 2, năm 1525 Công nguyên. Vùng hồ cạn khô thành bùn và tan biến đi theo những cơn bão cát.

– Hắn tiêu diệt gần như toàn bộ chúng ta, – Koh nói.

– Ai cơ? – tôi hỏi

Bà ta miêu tả một gã khổng lồ với bộ râu đỏ hoe vàng.

Tôi nói tôi biết hắn là ai.

– Là ai? – bà ta ra hiệu hỏi.

– Pedro de Alvarado.

53

Koh nhắc lại cái tên. Tôi thấy rùng cả mình khi nghe thấy nó ở đây, vào lúc này, qua giọng nói của bà ta.

– Lúc này, chúng ta đã thành nô lệ, – bà ta nói. Tôi tiếp tục nhìn xuống bàn cờ. Bây giờ, nó to lớn chẳng khác nào toàn bộ Tây Bán Cầu, dân cư đi lại khắp các lục địa như những hạt xoàn lăn trên cái dĩa phẳng. Bà ta mô tả các thành phố to phình lên gấp đôi chỉ sau vài mùa hòa bình, hệt như nấm đất, và hai cái rễ đen với những con sâu khổng lồ, ướt rượt, trườn bên trên. Tôi nói cho bà ta biết tên của thứ mà bà ta vừa liên tưởng ra, và bà ta nhắc lại từ “đường sắt”. Bà ta chuyển từ vị trí của ngày 24 tháng 12năm 1917 sang năm 1918, đến chuỗi ngày mà những cơn động đất tàn phá Ciudad Guatemala. Bà ta tả rằng những cái rễ sinh sôi rất nhiều, nhú lên, vươn dài và rỉ ra nhựa đường. Lũ rận rệp màu đen bò trên đó, hút máu của nữ thần Cóc Đất và cây cối sẽ rung chuyển dưới hơi thở của chúng. Sau k’atun thứ chín của b’ak’tun cuối cùng, lũ rận rệp hôi thối đó sẽ sinh sôi thành từng đàn khổng lồ, được tráng men đỏ, xanh lơ và vàng, một vài con mọc cả cánh. Tôi giải thích rằng theo tôi, bà ta đang nhìn thấy đường, xe ô tô và máy bay. Bà ta tả tiếp những khối đá thạch anh “mọc qua đêm và nôn những con ruồi trắng vào một cái bát nứt màu lục lam”.Tôi không chắc bà ta nói thế nghĩa là sao. Bà ta đặt hòn ngọc bích của mình xuống ngày Khỉ rú 11, Trắng 4, unial thứ năm, tun thứ nhất, k’atun thứ mười tám của b’ak’tun thứ mười ba,b’ak’tun cuối cùng.

– Đó là ngày lễ đặt tên của người, bà ta nói. Tôi gật đầu ra hiệu “đúng”.

Bà ta di chuyển nó đến ngày mùng 3 tháng 2 năm 1976 – ngày xảy ra cơn động đất lớn cuối cùng của Guate City – và tiếp tục đi sâu hơn vào b’ak’tunthứ mười ba.

– Ngày Chuyển động 11, -Koh nói, – một con rắn “ống xì đồng” với miệng và hậu môn kề nhau sẽ nôn bụi cát vào lửa của Thần Số Không, và bụi cát đó sẽ nóng chảy thành những lưỡi dao thủy tinh.

Ngày đó tương ứng với ngày mùng 2 tháng 6 năm 2009, ngày xảy ra vụ nổ máy gia tốc hạt ở Huajapan de Léon. Tôi định kể qua cho Koh về sự việc này, nhưng bà ta đã đi tiếp, đưa viên ngọc mắt mèo đến ngày Lưỡi dao 6, Xương vàng 6.

– Chúng đánh lộn nhau ở đây, – bà ta nói, – tại một ” thành phố trò chơi” ở đồng bằng san hô phía bắc.

– Là Disney World, -tôi nói.

-Chính xác thì điều gì đã xảy ra vào mặt trời đó?

Tôi cố mô tả lại ngày đó chính xác hết mức có thể.

Koh đi tiếp. Chúng tôi đã đến nơi tận cùng của thế giới ở rìa phía tây của bàn cờ, tại một ô tương ứng ngày Chúa tể 4, Xương vàng 3, tức 21 tháng 12 năm 2012, ngày cuối cùng của chu trình thời gian.

-Một ahau giấu mặt sẽ khiến người của ông ta quay ra chống lại chính ông ta, – Koh nói, – ông ta có cái sọ méo mó.

Tôi gật đầu đồng ý “vâng”, nhưng thông tin đó chẳng có gì là nhiều nhặn cho lắm.

– Không, chờ đã, – bà ta nói, – ông ta không phải ahau, ông ta chỉ sử dụng tiếng nói của ahau thôi. Tên ông ta là Hoa Lăng Tiêu.

Ối giời, – tôi kêu thầm trong bụng. Thông tin này thì có vẻ khá cụ thể, theo cách riêng của nó. Có điều tôi chưa từng nghe đến thứ gì được đặt theo tên Hoa Lăng Tiêu.

Hừm.

Từ tiếng Ix mà bà ta dùng là t’aal chaconib, nôm na là “hoa sô-cô-la chim ruồi”. Và hiển nhiên đó là “hoa lăng tiêu”, Campsis radicans. Nhưng vấn đề là từ này hay được dùng làm tính từ nhiều hơn, giống như “màu hồng cá hồi” vậy. Tức là người ta coi hoa lăng tiêu là màu đỏ. Nhưng những loài lăng tiêu dại mà chúng tôi có lại có màu hồng, hoặc hồng cá hồi. Vì vậy, chắc ý bà ta là “màu đỏ nhạt”.

– Người, ở trên tôi, có thể cho tôi biết ông ta ở đâu không? – tôi hỏi. Nhưng bà ta đã đi tiếp, đưa quân chạy đi xa hơn ngày đó, vào thời gian “không tên”. Bực thật. Tôi lại liếc nhìn bà ta. Những người chơi cờ Hiến tế phải học cách che giấu sự mệt mỏi tinh thần, nhưng đồng thời họ cũng học được cách đánh hơi thấy điều đó ở kẻ khác. Vì vậy, mặc dù Koh không có biểu hiện gì ngoài một tẹo nhức mỏi vì phải tập trung mắt khá lâu, thêm một hay hai mạch máu hơi nổi lên trên nửa trắng của khuôn mặt, nhưng tôi vẫn có ấn tượng rằng bà ta sắp gục xuống. Một giọt mồ hôi lăn xuống từ chân tóc được xoa dầu của bà ta. Trên bàn cờ, và hình như quanh chúng tôi nữa, vô số hình thù lộn xộn quay cuồng và gào rú với tiếng ồn như tiếng một đàn súc vật thuộc loài có vú không lồ trong hang đá lớn. Phía trước chúng tôi, có thứ gì đó nom như một rìa núi, và xa hơn nữa là một thứ có thể gọi là vùng nằm ngoài tầm mắt, tức là 80% không gian quanh đầu mà anh không những không nhìn thấy, mà còn không hình dung được trông nó sẽ như thế nào. Chẳng hạn, khi anh cố nhướng mắt nhìn lên khoảng không phía trên giới hạn cao nhất của tầm nhìn phía trên mũi mình, anh sẽ thấy một dải mờ màu nâu, nhưng xa hơn nữa lại không phải một màn đen kịt mà là sự hư vô mà bộ não của anh không thể hình dung ra được ở đó có gì.

-Và đây là cách núi rồi, – Koh nói. Nghĩa là không còn gì nữa.

Im lặng.

Hừ, trở ngại đây, – tôi nghĩ. Tôi nén một cái ợ. Tôi thấy buồn nôn. Cô gái lùn lạch bạch đi tới, dọn những viên đá lớn nhỏ đi. Sự im lặng kéo dài đằng đẵng trong lúc Koh nhìn xuống bàn cờ trống không. Hai mắt tôi mỏi đến mức nhìn cái gì cũng hơi xanh xanh. Khi Koh quay đi không nhìn nữa, cô gái lùn lau sạch bàn cờ bằng nước b;alche’, muối và nước lã, đập tay năm lần để báo cho uay của bàn cờ biết rằng chúng tôi đã chơi xong, đậy nắp lò lại và rải cánh hoa phong lữ lên đó. Cô ta lấy từ một trong mấy chiếc bình ra một mảnh vải ướt và dập tắt các mẩu nến bấc.

Tôi nheo mắt. Trong phòng vẫn còn ánh sáng. Đó chính là ánh sáng xanh mà lúc trước tôi tưởng là do mắt tôi mỏi. Nó vẫn lờ mờ nhưng đủ sáng để tôi nhận ra thứ bóng như sáp phủ khắp tường, khắp trần nhà và khắp các bức màn che, thứ có màu đen dưới ánh lửa lúc nãy không phải giấy, không phải lá cây, cũng không phải lông chim. Đó là một lượt cánh màu xanh biếc của loài bướm đổi màu. Chúng được cắt tỉa tỉ mẩn từ phần giữa cánh thành những mẩu hình tròn bé xíu rồi đính lên lớp lót bằng vải bạt. Hàng chục ngàn phiến tròn óng ánh biếc như da trời rung rinh trong luồng gió mà không có chúng thì chẳng ai nhận thấy. Tôi nghe nói ở miền tây bắc này, bướm đổi màu là way của các chiến binh đã bỏ mạng và người ta chỉ có thể thu lượm chúng sau khi chúng chết một cách tự nhiên. Đôi khi, những người thu lượm bướm phải theo dõi những con hấp hối đến vài ngày trời. Thế thì mất bao lâu mới được chỗ này? – tôi tự hỏi,người ta đã tiêu tốn bao nhiêu giờ lao động, bằng bao nhiêu đời người, cho căn phòng này? Ánh sáng lan rộng ra. Chúng rơi xuống như tuyết từ ô cửa trần, chậm đến mức tôi nghĩ mình trông thấy rõ từng hạt ánh sáng. Màu xanh đằm xuống thành một ánh biếc long lánh kỳ ảo, ánh biếc không hẳn là màu sắc mà đến từ hàng tỉ chiếc vây góc cạnh và biến mất dưới một giọt nước, và nó còn đằm sâu hơn thế nữa, tưởng như chúng tôi đang chìm xuống nước biển nhiệt đới, tinh khiết đến độ tôi cảm tưởng như đây mới là lần đầu tiên được nhìn thấy màu xanh thực sự.

Cô gái lùn dừng việc đang làm và hấp tấp bỏ ra ngoài như thể vừa nhận được hiệu lệnh bằng ngoại cảm.

Chắc chỉ thế thôi, – tôi nghĩ. Tôi hít một hơi và chuẩn bị bài cảm ơn như thông lệ nhưng Koh ngăn tôi lại bằng một cử chỉ “cứ ở yên đó chờ”.

Bà ta nhắm mắt lại. Đây có thể coi là cử chỉ thân mật nhất của bà ta kể từ lúc tôi đến.

Chúng tôi ngồi yên.

Ta có nên coi đây là một thất bại không nhỉ? – tôi ngẫm nghĩ, – bà ta đã đưa mình đến đó, mình đoán rằng… nhưng như thế cũng không đủ để lần ra ai đó… phải vậy không? Mình không…

– Ta cần chơi lại ván đó, – Koh nói,- với một liều đầy đủ Bụi Của Muối Mặn Già và Bụi Của Người Chèo Xuồng Già.

Tôi không biết nói gì nên cứ ngậm miệng, một điều rất hiếm khi tôi làm.

Hừm, vậy là, xem ra bà ta cũng coi đây là một thất bại. Song chí ít bà ta cũng có sự tự tin. Nó hơi giống cái cách mà Taro nói chúng tôi cần nỗ lực thêm 1020 lần nữa để khoanh vùng được tên doomster. Chúng tôi không bao giờ làm được điều đó, hiển nhiên, bởi hành tinh này không có nhiều sức máy tính đến thế, nhưng ít ra ông ta cũng biết điều đó là không thể.

Tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng động và ngẩng lên. Chin Cách Cụt đã quay lại, thì thầm gì đó vào bên tai trắng của Koh.

Tôi ngồi yên.

Tiếng thì thào mãi không dứt. Cảm giác về thời gian của tôi vẫn chưa trở lại bình thường, nhưng tôi chắc chắn câu chuyện đó kéo dài hơn mười phút. Koh ra hiệu bằng tay để hỏi lại vài điều gì đó nhưng tôi không hiểu là gì. Bà ta nhìn tôi với thái độ làm tôi hơi lo. Cuối cùng, cô gái lùn cũng đi ra, Koh ngồi lại tư thế trang trọng và nhìn tôi với ánh mắt khiến tôi phải cúi xuống nhìn chỗ lúc trước là bàn cờ.

Các bạn có biết… À, tôi chắc chắn là các bạn có biết…rằng trong các vở kịch Hy Lạp, mọi diễn biến đều diễn ra sau sân khấu? Và thứ duy nhất xảy ra trên sân khấu là, lấy ví dụ thôi, một người đưa tin bước ra và nói một câu đại loại như “Muôn tâu nữ hoàng! Người Thesalonica đã bị đánh bại!”. Khi lần đầu tiên đọc những vở kịch này, tôi nghĩ chúng thật kệch cỡm và giả tạo. Nhưng càng chứng kiến nhiều sự đời, nhất là những sự việc ở đây, ở thời cổ này, tôi càng nhận ra những điều trong vở kịch đó đúng thực tế. Các nữ hoàng, các quận công, các ahau và những nhân vật loại như thế thực sự dành hầu hết thời gian ngồi trong phòng của mình nghe báo cáo qua vài lần truyền miệng rồi cử người truyền lại mệnh lệnh, và nói chung, họ thường không nhúng tay vào công việc thực sự.

-Ta vừa nghe tin dinh thự của Bị Thương 14 của thị tộc Đại Bàng vừa bị đột kích, – Koh thông báo. Bà ta không trừng mắt lên nhìn tôi nhưng giọng bà ta cộc lốc và tôi nghĩ không phải do kiệt sức sau ván cờ. Bà ta nổi giận.

-B’aach? – tôi hỏi lại. – Sao cơ?

Ăn nói với bà ta như vậy thì quả là xấc xược đến mức không thể tha thứ được, nhưng tôi nghĩ đấy là do tôi đã quay trở lại với sự thiếu suy phép tắc của người thế kỷ hai mốt.

-Bị Thương 14 đang ở ngoài kia với người của ngươi.

-Các k’iik khác thì sao? Chuyện gì đã xảy ra với họ?

-Theo như chúng ta biết, họ cũng đang trên đường tới đây, – bà ta đáp.

Tôi liền duỗi chân ra.

-Tôi, dưới chân người, nên…

Bà ta ngửa bàn tay lên, ý nói “im đi” trước khi tôi kịp nói nốt câu “ra gặp họ”.

-Ta được thông báo rằng những kẻ tấn công là người của thị tộc Bướm Đuôi Nhạn, – bà ta nói.

Là lũ mất dạy của nhà Báo Đốm Oxwitzá đây mà, – tôi nghĩ bụng. Thuyền của chúng đã bám theo chúng tôi từ ngoài vịnh. Chắc chúng đã đến đây ngay sau chúng tôi và tạ sự trước mặt những người anh em nuôi trong Giáo hội Báo Sư Tử để xin họ chấm dứt việc làm ăn của 14. Và có đến gần một trăm phần trăm là nhà Mèo Rừng ở Ix xúi bẩy việc này. Lũ giời đánh.

-Ta còn được thông báo rằng thêm nhiều người nữa đang trên đường tới đây, – Koh nói. Chắc là những người trốn thoát đang cố xin một nơi ẩn náu tạm thời ở đây, trong lãnh địa của Rắn Chuông.

Chết cha, bà ta nổi cơn rồi, – tôi nghĩ. Và chắc không chỉ vì những đứa con của Rắn Chuông không muốn tiếp nhận những người lánh nạn nữa, mặc dù họ không muốn thật, bất chấp quy tắc hiếu khách buộc họ phải nhận. Vấn đề chính là vụ rắc rối này có thể chặn đứng mọi cơ hội cải thiện quan hệ giữa Rắn Chuông và hai Giáo hội lớn.

Thôi được rồi, – tôi tự nhủ, – thay đổi kế hoạch vậy. Đừng nản. Không quan trọng đích đến cách bao xa…miễn là mày luôn hướng đến nó.

Chúng ta vẫn còn ít thời gian. 14 chỉ là chuyện vặt thôi. Phải vậy không? Hai Giáo hội có thể rượt đuổi một thương lái nước ngoài ngay trước Tuần lễ Thiêng nhưng họ sẽ không gây sự với Rắn Chuông trước khi lễ vọng kết thúc. Phải không?

Được rồi. Nghĩ đi.

Chẳng thể có cách nào bí mật ra khỏi đây được. Chúng ta phải ở lại trong lãnh địa của Rắn Chuông cho đến khi kết thúc nhật thực rồi sẽ nghĩ kế tìm đường ra sau.

Và sự cố này chỉ khiến Koh dễ nhận lời đến ẩn náu ở Ix hơn thôi. Bà ta sẽ nhận lời, – tôi nghĩ, – bà ta phải nhận.

-Tôi cầu xin người, ở trên tôi, hãy đến Ix, – tôi nói, – cha tôi, Sọ Đá Quý 2, muốn dành cho người…

54

Tám ngày sau, khi giờ một một-phần-chín thứ hai của ngày bắt đầu – tức 10 giờ 32 phút sáng – mọi cư dân của thung lũng thiêng Teotihuacán đều ở ngoài trời, mắt ngước lên, chờ đợi Người Nuốt Ánh Sáng tấn công mặt trời. Chỗ duy nhất không có người đứng là talud (Mặt phẳng dốc trên kim tự tháp kiểu Mexico – chú thích của tác giả) và tablero (Mặt phẳng đứng trên kim tự tháp kiểu Mexico – chú thích của tác giả) của các kim tự tháp. Quý tộc, thương nhân, thợ thủ công, người hành hương, phu khuân vác, tù binh, nô lệ, bà già, con gái, trẻ con, trẻ sơ sinh – kể cả những người không nhìn thấy gì, không đứng được nữa, kể cả người đang hấp hối và thậm chí cả người vừa tắt thở – tất cả tập hợp lại theo phẩm cấp và tín ngưỡng, đứng đông nghịt trên các quảng trường và vườn sân thượng. Người già ngồi trên vai con trai, người trẻ đi xăng-đan gót cao như cà kheo hoặc đứng bập bênh trên những chiếc ghế đẩu. Tất cả đàn ông trưởng thành đều cầm theo các dụng cụ gây tiếng ồn, bất cứ thứ gì theo truyền thống của thị tộc và phù hợp với tuôi tác của họ: trống, tù và, trống lục lạc, sáo ngắn, sáo dài, chuông đất, chuông đá, catanhet (Một loại nhạc cụ gõ, gồm hai mảnh lõm nối với nhau bằng một sợi dây), que gậy, quả lắc, đàn “bò rống” (Một loại nhạc cụ cổ dùng trong nghi lễ hoặc để liên lạc ở khoảng cách xa, được tìm thấy ở nhiều nơi, trong đó có châu Mỹ), giũa, còi và hàng trăm đồ vật cải tiến khác, tất cả đều mới toe.

Không có ánh lửa nào trong thung lũng. Thực tế, không có ánh lửa nào trên khắp vùng cao nguyên. Và ngay cả ở ngoài lãnh địa xa nhất của đế chế, các hòn đá kê lò cũng đã được dội nước và ném đi. Trên phần lớn lãnh thổ Tây Bán Cầu và có lẽ là khắp vùng Mesoamerica., tất cả các ngọn đuốc, nến bấc, than, xì gà và mọi nguồn sáng khác đều đã bị đập tắt. Đêm qua là một đêm u ám và không trăng, và khi chúng tôi chuẩn bị những công việc cuối cùng trong các khoảnh sân của đền Rằn Chuông, chúng tôi có cảm giác như … nói thế nào nhỉ … mặc dù đang đứng giữa một nơi có lẽ là tập trung người đông nhất thế giới vào thời điểm đó, nhưng chúng tôi vẫn có cảm giác đang ở sâu dưới lòng đất, trong một hang động khổng lồ tối om, đến ánh lân tinh cũng không có. Ở khoảng giũa xa mạc Sonoran và dãy Andes, cả lục địa tối đen hệt như cách đây ba mươi ngàn năm, khi những sinh vật họ người chưa đặt chân lên nó.

Toàn bộ, chỉ trừ một số rất ít bình vại, bát đĩa đã bị đâm thủng hoặc đập nát. Chăn chiếu. quần áo bị làm bẩn, xé rách hoặc tháo tung ra. Chữ khắc bị xóađè lên bằng các vệt mực xanh. Gia súc và nô lệ bị làm thịt, hàng ngàn người già cả, bệnh tật, hay đơn giản là quá sùng tín, đã tự vẫn. Mọi người, ít nhất là mọi người trừ tôi và một số kẻ theo chủ nghĩa hoài nghi khác, đều khiếp vía vì nghĩ rằng đây sẽ là lần chết hẳn của mặt trời. Tôi cũng khiếp vía, đương nhiên,chỉ có điều không phải vì chuyện đó.

Từ cái chuồng chim của chúng tôi trên mũi kim tự tháp Rắn Chuông – nghĩa là ở lưng chừng mặt tiền của kim tự tháp, hướng về phía đông, nhìn ra quảng trường chợ bán đồ thờ nằm cuối trục đường chính – chúng tôi vẫn cảm thấy hơi nóng tỏa ra từ cơ thể người, tiếng hơi thở chen nhau hỗn độn, mùi chua bốc ra từ cổ họng bị loét của những tên tù tội đứng trong chuồng đan bằng cành liễu, mùi hôi thối bốc ra từ buồng phổi sắp ung tthư vìthuốc lá của các lão già. Trời quang đãng và may cho chúng tôi là chỉ có một chút gió nhẹ. Một ngày hoàn hảo cho sự chấm dứt của thời gian. Tôi chuyển hết chân nọ đến chân kia. Một đoạn dây buộc trên đôi xăng-đan dùng trong chiến trận của tôi tuột ra và chọc vào cẳng chân tôi nhưng tôi chẳng buồn cúi xuống xử lý nó. Nó chưa tã hẳn đâu mà sợ. Tôi hơi loạng choạng đổ người về phía trước. Hun Xoc chìa một tay ra và kéo tôi đứng thẳng lại.

Hai chúng tôi đang đứng quay mặt về hướng tây. Bên trái tôi là Hun Xoc, sau lưng la Cứt-ta-tu. Nhiệm vụ chính xác của nó là giám sát tôi từ đằng sau. Chúng tôi đang đứng giữa một nhóm gồm mười một k’iik khác và hai mươi hai người nữa cũng của nhà Đại Bàng nhưng không phải k’iik. Cá Sấu 12 đứng đầu, sẵn sàng tụt ngay về phía sau nếu bị tấn công.

Tất cả chúng tôi đều mặc áo choàng màu xanh lam để thể hiện chúng tôi là lính canh của hộiRắn Chuông. Bên dưới lớp áo ngoài, chúng tôi trang bị giáp trụ nhiều hết mức có thể mang mà vẫn không đáng ngờ.Nghĩa là chúng tôi đeo giáp bảo vệ cẳng tay, cẳng chân đan bằng cành liễu, mặc áo lót bằng vải bạt dày may chắn hai lớp, mỗi lớp đều được lót các mảnh gỗ bên trong, có thể chặc được hầu hết các lưỡi dao. Mỗi người đều có một cây chùy hoặc gậy ngắn buộc vàomé trong đùi và một tấm khiên đan bằng cành liễu cuộn lại, buộc vào dưới đùi bên kia. Dưới lớp áo choàng sau lưng, chúng tôi mang một cây lao ba khúc đeo bằng một sợi dây mảnh, có thể dễ dàng dứt đứt khi cần. Mỗi người có ba mũi lao gập lại và hai sợi dây da sống khỏe, đủ để buộc chặt các vật cần thiết vào tay chúng tôi. Tuy thế, tôi vẫn ướcgiá như mấy tấm khiên to hơn một chút. Chúng có thể là mắt xích yếu của chúng tôi.

Các k’iik của nhà Báo Sư Tử đứng trên kim tự tháp bên cạnh nai nịt đây đủ, cầm những ngọn giáo dài dùng trong lễ diễu hành, tuy mũi giáo chỉ là những phiến đá lửa hình thù quái gở dùng để trang trí nhưng vẫn có thể gây thương tích ra trò. Như tôi nghĩ là tôi đã nói, người nhà Báo Sư Tử rất ghét những đứa con của Rắn Chuông, và ngay khi thấy dấu hiệu đầu tiên của một vụ ẩu đả, chúng sẽ lợi dụng cơ hội để quét sạch càng nhiều đối thủ càng tốt. Hơn nữa, nhà Báo Sư Tử vẫn đang cho một vài MèoRừng Ix cư trú trên lãnh địa của mình. Ai biết được chúng có nghe được chuyện gì hay không? Tin đồn đi nhanh hơn người nhiều lắm. Kẻ nào đó ở Ix có thể đánh hơi thấy Sọ Đá Quý đang âm mưu gì đó và gửi một thông báo đến đây, nhờ nhà Báo Sư Tử để mắt tới các Đại Bàng Ix. Ghê nhất la chúng có thể đang treo thưởng cho bộ da của chúng tôi.

-Nhìn kìa! – Hun Xoc ra hiệu bằng cách đập tay vào tay trái tôi.

Tôi nhìn theo ánh mắt thằng bé về phía trước, xuống dưới. Ba tốp hai mươi tên lính cầm lao của thị tộc Bướm Đuôi Nhạn trong áo giáp đỏ vừa lách qua đám đông, đến cắm chốt ở vị trí giữa quảng trường và khu chợ bán đồ thờ, chặn gần hết lối vào trục đường chính.

Quân ôn vật, – tôi rủa thầm. Hừ, trò này sẽ thọc gậy vào lịch trình của chúng ta đây.

Chắc Koh cũng nhìn thấy chúng. Phải vậy không?

Tôi liếc qua vai ra đằng sau. Sau lưng chúng tôi, một phần ba phía trên kim tự tháp Rắn Chuông Sao được trang trí lộng lẫy , xuyên thẳng qua làn mây mỏng. Các bậc thang được chật kín lính canh và người cải đạo. Phía trên chúng tôi, cách sáu mươi sải tay, trước cửa điện thờ, năm mươi hai thầy tế và người đếm mặt trời phẩm cấp cao nhất của Rắn Chuông Sao đứng thành một dãy bất động. Tất cả đều vận trang phục đàn ông, gần như giống hệt nhau, với cái mũ to tướng, xăng-đan đế cao và mặt nạ che mắt giả làm thần mưa Chac, nhìn giống hệt như những cặp kính dày không tròng để giúp họ nhìn xuyên qua hơi thở của Người Nuốt ánh Sáng Đen. Cao hơn nữa, phía trên họ, trên căn điện thờ lộ thiên nằm trên đỉnh kim tự tháp, nhô lên cái bóng lờ mờ của một chiếc mũ cao trên đầu công nương Vàng, người đứng đầu các nữ tư tế của giáo hội Nhện Dệt Cầu Vàng. Tôi nghĩ bà ta là một nhân vật từa tựa như Mẹ Bề trên. Nghe đâu bà ta đã một trăm linh tám tuổi.

Tôi điểm năm bóng người ở góc phía bắc và nhận ra công nương Koh. Tự dưng tôi thấy hãnh diện một cách ngớ ngẩn vì đã nhận ra bà ta trong hàng. Khuôn mặt, hay những gì tôi có thể thấy trên khuôn mặt bà ta, hoàn toàn dửng dưng.

Thật khó tin là nhiệm vụ của tôi đang tiến triển tốt. Làm sao Koh biết được tất cả chuyện này không phải là một cái bẫy? ừ, chí ít thì qua cuộc kiểm tra chéo với tôi, bà ta biết tôi không nói dối. Thực ra, tôi cược rằng bà ta nghĩ tôi đang nằm trong tay bà ta. Hừ, có lẽ thế thật. Tuy nhiên, bà ta không thể biết chuyện gì sẽ xảy đến với mình khi tới Ix.

Hay là có? Biết đâu bà ta nhìn thấy tương lai của mình nhiều hơn ý muốn. Biết đâu bà ta muốn nắm được cách pha chế ma túy của trò chơi để xây dựng một đế chế cho riêng mình.

Hừmm, như thế cũng chẳng sao. Tại sao không chứ? Tiến lên, hãy đặt mục tiêu cao hơn một chút. Song cũng chưa nên lo nghĩ chuyện ấy làm gì vội. Tập trung mỗi lúc một việc thôi. A, B, C, từng việc một. Và ngay lúc này A là toán lính của nhà Bướm Đuôi Nhạn.

Chắc bà ta cũng nhìn thấy rồi, – tôi nghĩ. Chúng tôi có nên đi qua mặt chúng không? Hay nên đi bằng đường khác? Và nếu làm thế, chúng tôi có thể báo hiệu cho bà ta biết không?

Không, đừng làm thế. Tốt nhất cứ hành động như đã bàn. Đến nơi hẹn đầu tiên ở kho thuốc rồi hãy thay đổi kế hoạch nếu cần.

Hun Xoc lại khều tay tôi. Tôi vội ngoảnh mặt về vị trí cũ. Các chú lính, hãy nhìn thẳng phía trước!

Mày biết đấy, – tôi tự nhủ, -điều thực sự rùng mình nhất trong cảnh tượng này (hay có thể gọi là điều kỳ quặc nhất) là tuyệt nhiên không một ai trong đám đông gây ra bất cứ tiếng động nào trước khi được phép, bất chấp sự cám dỗ ghê gớm. Ừ thì, họ đã luyện tập suốtnăm ngày rồi mà. Còn tôi thì huýt sáo nhiều đến mức không biết là dây thanh quản có còn làm việc được nữa hay không. Năm ngày vừa rồi, tôi có cảm giác như sinh vật sống duy nhất mà tôi còn nghe thấy tiếng là những con chim.

Anh có thể cảm nhận được đám đông đang run rẩy. Anh có thể ngửi thấy mùi cảnh giác bốc ra từ mồ hôi trên người họ. Đám đông người sống chỉ phát ra những tiếng sột soạt và kẽo kẹt như rừng cây trong khoảnh khắc tĩnh lặng nhất của đêm tối, ngay trước khi bản đồng ca trước lúc bình minh cất lên. Bàn tay họ lăm le đặt sẵn trên các nhạc cụ của mình nhưng không ai huýt sáo hay đập tay, thậm chí không ai đánh rơi lấy một cái lục lạc. Tôi tự hỏi không biết trong lịch sử thế giới liệu có còn một thành phố nào khác lớn hơn như thế này có thể tạo ra một sự đồng lòng trong dân chúng đến mức này. Ngay cả súc vật dường như cũng cảm nhận được sự tĩnh lặng, đến nỗi tiếng kêu của một con mòng hoặc két, hay tiếng sủa của một con chó trong bãi rào thi thoảng cất lên cũng có vẻ rụt rè. Thảng hoặc có tiếng trẻ con khóc ré lên và bị bịt mồm lại ngay lập tức. Bị bóp chết cũng nên, – tôi nghĩ thầm.

Lũ man rợ. Bất chấp màu sắc rực rỡ, sự sạch sẽ và thiện chí chung, đây vẫn là một ngày thảm khốc. Cho dù anh chưa biết gì về nơi này – nhu vừa bước ra từ máy dịch chuyển không gian chẳng hạn – anh vẫn có thể nhận ra bằng bản năng rằng thành phố này đang trong giây phút vô cùng hồi hộp. Hệt như cảnh trong phòng chờ của một ông bác sĩ và tất cả chúng tôi đang đợi người lễ tân gọi đến tên mình bằng giọng bình thản hết sức có thể, và thông báo rằng đã có kết quả xét nghiệm.

Đương nhiên, từ quan điểm của một người sống ở thế kỷ hai mốt, tôi cho rằng tất cả trò này thực sự có phần ngu xuẩn. Rốt cuộc thì cũng chỉ là một phần nhật thực thôi mà. Nhưng mặt khác – và ngay cả khi tôi cố tạo ra sự xa cách về cảm xúc – tôi cứ cảm thấy việc này có sự đúng đắn nhất định. Ở thế kỷ hai mốt, người ta cứ cắm cổ tiến về phía trước và khi có chuyện không hay đổ xuống đầu thì lại ngạc nhiên, không thể tin được chuyện đó lại xảy đến với mình. Còn ở đây, chí ít người ta cũng sẵn coi rằng chuyện gì cũng có thể xảy ra.

Tôi liếc sang tay trái về phía trung tâm thành phố. Trục đường chính trải dài về phía bắc. Cả thành phố chăng kín cờ đuôi nheo có dệt và lông cò thìa tết thành từng dải, gài trên hàng trăm ngàn thanh tre dài, tất cả đều có màu da cam để thu hút sự chú ý của mặt trời, hơi uốn cong lại trong gió nhẹ như những con pô-lip trên rặng san hô mềm. Dưới đám cờ quạt là hàng ngàn k’iik, mỗi người đứng trên một vị trí chọn trước trong khu teocalli, che một tấm khiên tròn nhỏ trên vai trái, mỗi tấm được kết lông chim trang trí hơi khác màu nhau một chút, tuy sặc sỡ về màu sắc nhưng họa tiết theo kiểu đơn giản hình khối, tất cả đều quay về cùng một hướng – hướng tây – hệt như một cánh đồng hoa hướng dương. Những tấm có thể gọi là huy hiệu đó ấn tượng đến mức người ta dễ tưởng tượng rằng họ là các hiệp sĩ thời trung cổ đang tập họp cho một cuộc tỉ thí trên Cánh Đồng Lụa Vàng (Một địa danh ở nước Pháp, nơi diễn ra cuộc gặp mặt kéo dài mười tám ngày vào năm 1520 giữa vua Henry VIII của nước Anh và Franciss I của nước Pháp. Trong thời gian này, người ta tổ chức nhiều trò giải trí và tỉ thí võ nghệ mà hai vị vua cùng tham gia, đồng thời người ta trưng diện nhiều trang phục bằng vải dệt từ sợi vàng đến mức cái tên Cánh Đồng Lụa Vàngđã được đặt cho địa danh này). Chẳng có ai để đầu trần hoặc không đeo mặt nạ. Ngay cả bọn nô lệ cũng quấn giẻ quanh môi trên. Còn các vị quyền cao chức trọng thì khắp người phủ kín ngọc bích và vỏ ốc xà cừ, thêm chiếc mũ có đuôi lông chim dài, nom họ chẳng khác gì những con côn trùng có râu và vỏ xương ngoài. Dân cả thành phố như bị đóng dính tại chỗ, trong các ngăn được dán nhãn “thị tộc quí tộc”, “thị tộc lệ thuộc”, “thị tộc nhỏ”, “thị tộc rất nhỏ”, “thị tộc hầu hạ” và “bọn nô lệ”. Có thể nói tất cả đã được phân chia hàng ngũ rất rõ ràng như trong một cuộc duyệt binh thời hiện đại, chỉ khác là ở đây không bói đâu ra hai người phục sức giống hệt nhau.

Tôi đưa mắt liếc dần về phía bắc, dọc theo trục đường chính cho đến khi gặp hai quảng trường phản chiếu ánh xanh nhạt của bầu trời. Hai khoảng sân trũng xuống gần kim tự tháp Phù Thủy Ngọc Bích đó đã được đổ đầy nước như hai bể bơi. Một bể được thả đầy axototl(axototl: Một loại cá cảnh, còn gọi là cá khủng long sáu sừng hay ” cá biết đi”.), hoa súng và cỏ jabiru, những vật thiêng đối với Phù Thủy Ngọc Bích. Nước ở bể thứ hai được để không. Nghe đồn nó được pha thêm nước cây ololiuqui (ololiuqui: Một loại cây leo thuộc họ Bìm Bìm có chứa chất gây ảo giác) để những tên tù lát nữa bị quẳng xuống sẽ chìm nghỉm mà không vùng vẫy gì. Có một dãy bệ thấp kê ở cạnh phía tây và trên một bệ, tôi thóang nhìn thấy ánh màu ngọc lam, có thể đó chính là năm gã nhà Mèo Rừng Ix được Chim Ruồi Có Nanh 9 cử đến tham dự buổi lễ. Ít ra thì ta cũng tránh xa được chúng, – tôi nghĩ.

Ở quãng giữa trục đường, kim tự tháp Bão Lốc to phềnh biến cả mọi thứ xung quanh thành những gã lùn. Đỉnh tháp cao gấp hai lần khoảng cách từ chỗ chúng tôi xuống đến quảng trường bên dưới, cao đến nỗi những ngày sương mù hoặc trong khói hương, người ta thực sự nghĩ rằng các thầy tế đứng trên đó đang bị những đám mây đói khát nuốt chửng. Nhưng hôm nay, cặp mắt tinh tường của Chacal có thể trông rõ toàn cảnh, các vị chức sắc thứ bậc thấp hơn trong giáo hội đứng trên tầng tháp cao thứ hai với những chiếc loa khổng lồ giống như kèn gọi gia súc của người Thụy Sĩ, dài có đến hai mươi sải tay đặt trên vai. Còn trên tầng tháp cao nhất, những chỏm mũ cao màu đỏ cam đặc trưng của Giáo hội Báo Sư Tử nhô lên từ bốn điện thờ lộ thiên trên đỉnh kim tự tháp.

Đám đông rung động. Nhìn từ xa, hình dáng của những tầng tháp dốc xuống bị méo mó đi khiến các vị chức sắc của Giáo hội nom giống như những gã khổng lồ đứng tít trên cao, cao hơn cả tầng trời không thể với tới được. Teotihuacán không có vua và quyền chấp chính được chuyển giao giữa các thành viên của hai hội đồng. Khi xuất hiện trước công chúng, họ che kín mặt nạ và không ai ngoài hội đồng được phép biết họ là ai. Nhưng từ những nguồn đáng tin cậy, Koh được biết rằng quan chấp chính đương nhiệm của phe Bướm Đuôi Nhạn là một lão già của Báo sư Tử tên là Cong Veo Ti Tiện. Bà ta cũng nói rằng chúng tôi cần coi chừng người có thể sẽ kế nhiệm Cong Veo Ti Tiện, một k’iik của nhà Báo Sư Tử tên là Cụt Tay Phải. Nghe đâu hắn mới mười ba tuổi – nhưng đã được đánh giá là đầy hứa hẹn. Người ta đồn rằng khi sinh ra, người hắn đầy lông và có răng nanh, và chẳng cần ai dạy hắn cũng tự biết cách biến ḿnh thành uay. Họ còn nói hắn ăn thịt người, những tên tù ít tuổi hơn hắn. Nhưng đó có thể chỉ là một cách tuyên truyền. Koh nói màu sắc đặc trưng của hắn là vàng và tím hoa cà.

Tôi đưa mắt lần theo các bậc thang của kim tự tháp Bão Lốc xuống một kim tự tháp bằng gỗ mới dựng. Năm mươi hai vật hiến sinh, tất cả đều đúng chín tuổi hai mươi chín ngày, đã thức liền năm ngày bên trong đó. Khi kim tự tháp bị thiêu chúng sẽ mang theo các đồ cúng khác lên trình diện mặt trời mới ra đời. Cách ngọn tháp chừng hai trăm tay sải tay về phía đông nam có một kim tự tháp phụ bé xíu với họa tiết như một bàn cờ đam màu đen và da cam. Đó chính là kho thuốc của nhà Báo Sư Tử, khu vườn cấm nơi họ trồng và tinh chế thành phần thứ hai của ma túy dùng trong cờ Hiến tế. Mục tiêu của chúng tôi.

Theo lời Koh, các thầy tế của Bướm Đuôi Nhạn biết chính xác thời gian nhật thực kéo dài bao lâu – khoảng mười tám phút rưỡi – và họ sẽ cố thổi bùng ảo giác của dân chúng về sức mạnh của mình bằng cách can thiệp vào càng sát thời điểm kết thúc càng tốt. Họ sẽ chờ cho đến khi chỉ còn một hoặc hai trăm nhịp trước khi mặt trời hiện ra, khi đó, Cong Veo Ti Tiện sẽ ra hiệu và từ tầng tháp dưới chân lão, hai mươi hai thầy tế của lão sẽ bắt đầu kéo những cây đàn “bò rống” làm từ xương đùi tổ tiên họ. Từ tầng tháp dưới nữa, hai trăm sáu mươi tên phụ lễ sẽ thổi những chiếc tù và khổng lồ. Và từ các tầng thấp hơn, từ khắp nơi, đàn ông sẽ khua các dụng cụ gây tiếng động của mình, đàn bà và trẻ con sẽ gào lên “Marhóani, marhóani”, “biến đi, biến đi”, trẻ sơ sinh sẽ bị thổi ớt bột vào mắt để khóc ré lên, ngay cả chó cũng sẽ bị đá vào xương sườn và ai nấy cố gắng gây ra càng nhiều tiếng động càng tốt cho đến khi Người Nuốt Ánh Sáng chạy mất. Lúc đó các thầy tế đứng đầu sẽ nhóm một đống lửa mới từ ánh sáng của chính mặt trời bằng cách dùng một tấm gương lõm mà theo tin đồn là khổng lồ, được mài và đánh bóng từ quặng sắt đỏ. Họ sẽ mang lửa từ kim tự tháp xuống thắp đền của mặt trời mới, tức là đống lửa mừng. Suốt ngày và đêm hôm đó, các vị chức sắc của bốn ngàn đô thị sẽ lũ lượt đi qua đống lửa và châm cây đuốc của mình, họ sẽ đem ngọn lửa mới và những giai thoại về sự kỳ vĩ của thành phố thủ phủ về quê nhà mình. Và vô số người sẽ tin rằng nhờ sự lãnh đạo của Giáo hội Báo Sư Tử mà họ giải cứu được mặt trời.

Đó là kế hoạch của phe Bướm Đuôi Nhạn. Như Koh và tôi có những ý tưởng khác.

Hai ngày trước, Koh đã ra tay. Ngay sau buổi trưa, không hề thông báo cho các nữ tư tế khác, bà ta triệu tập bố mươi tám người thân tín nhất và đưa ra cảnh báo về lần nhật thực này. Bà ta nói Lươn Giời đã phán bảo bà ta rằng lần này sẽ không ai thuyết phục đượcNgười Nuốt ánh Sáng Đen nhả mặt trời ra, trái lại, ông ta sẽ “ăn trộm luôn quả cầu”, nghĩa là nuốt hẳn mặt trời. Thần Lươn, tức Rắn Chuông Sao, sẽ sinh ra một mặt trời mới và mặt trời này không có quan hệ họ hàng gì với các thị tộc hậu duệ mèo; trong k’atun mới, những đứa con của Rắn Chuông Sao sẽ được hưởng nhiều đặc quyền hơn bất cứ ai. Nhưng trước đó, để làm sạch thế giới đang hấp hối này, Thần Lươn sẽ mở một quả cầu mây và thả một đàn dadacanob, “những con ong lưng dài” – tức ong bắp cày, Vespula Squamosa, một sự phiền toái lớn kiêm kẻ giết người nhỏ ở miền này – để chúng đốt vào mắt tất cả những kẻ nào ở Teotihuacán không đi theo Rắn Chuông. Tất cả, trừ những đứa con của Rắn Chuông, sẽ bị tuyên phạt sống trong bóng tối. Sau đó, Thần Lươn sẽ cho Koh biết nên đưa tín đồ của mình đi đâu và sẽ đem sự phù hộ của ngài đến với một thành phố Rắn Chuông mới ở vùng Đất Đỏ, tức là miền đông nam. Trong lúc đó, những người đưa tin được phái đến nhà các trưởng lão của hai mươi tư gia tộc đồng minh với Koh và thông báo cho họ địa điểm hẹn: Đồi Lột Da. Ngay khi nghe thấy tiếng lũ ong bắp cày, họ nên tập họp toàn gia tộc và thu gom những tài sản quý giá nhất rồi đi về hướng đông.

Đoạn cuối cùng khiến tôi hơi lo ngại. Chúng tôi đã đi từ chỗ chỉ bàn về gia tộc của Koh và một vài tín đồ thân cận nhất đến chỗ dính dáng đến gần năm trăm người. Liệu các làng Đại Bàng có đủ thức ăn để nuôi họ không? Nói đến chuyện ấy, liệu có đủ thức ăn và nước uống cho tất cả trên đường đi không? Bao nhiêu người sẽ chết trong chuyến di cư này?

Thôi đừng lo chuyện ấy làm gì, – tôi tự bảo mình. Cứ nín lặng mà tuân theo, giành lấy món thuốc, trở về Ix thế là xong việc ở đây.

Koh lập tức được triệu tập đến trước mặt công nương Vàng, người đại khái giống như mẹ bề trên của dòng tu. Điều ấy có nghĩa là ít nhất một trong bốn mươi tám người tin cẩn của Koh đã tố giác bà ta. Công nương Vàng nói dòng tu sẽ tổ chức bỏ phiếu về tư cách thành viên của bà ta. Nếu bị bỏ phiếu chống, bà ta sẽ phải tự dìm mình chết đuối. Tiếp đó, chân trong của bà ta ở trong Giáo hội Trắng bảo rằng hai Giáo hội lớn đang cân nhắc việc mời bà ta đến diện kiến – nghĩa là buộc bà ta phải tự nộp mình đến nơi chắc chắn có tra tấn và hành quyết.

Đến giữa trưa ngày Im Lặng, khắp các chợ và sân giếng ở Teotihuacán, dân thường đã bắt đầu thì thầm nhắc lại với nhau về những điều Koh nói, rằng “Mặt trời tiếp theo là của Rắn Chuông Sao”. Toàn thể thành phố, và có lẽ toàn bộ người dân trong thung lũng Mexico đã nghe được tin đồn đó, từ Cong Veo Ti Tiện cho đến tên hót phân hèn hạ nhất. Và, như thường lệ với những tin đồn kiểu như thế, nó được thổi phồng lên. Mặt trời sắp nứt ra. Trời sắp sập xuống. Thành phố sắp chìm xuống một cái hố dưới tầng đất không. Vân vân và vân vân.

Tuy thế, không ai muốn làm điều gì gây náo động trước ngày nhật thực. Một phần vì đó là dấu hiệu của sự lung lay, nhưng cũng một phần vì tất cả, từ trên xuống dưới, đều chấp hành lệnh im lặng một cách hết sức nghiêm túc. Hơn nữa, ngay sau khi mặt trời xuất hiện trở lại, Koh sẽ mất uy tín và rất dễ tấn công thôi.

Hiển nhiên, hai Giáo hội lớn biết chắc rằng mặt trời sẽ xuất hiện trở lại. họ gần như biết mọi điều về hiện tượng nhật thực, không chỉ biết chu kỳ mười tám năm mười ngày một phần ba mà còn biết chúng sẽ là một phần hay toàn phần và sẽ kéo dài bao lâu. Chỉ có điều, họ cố làm sao cho dân chúng biết càng ít càng tốt. giống như các bác sĩ tâm lý, tầng lớp cai trị phải khiến anh có cảm giác rằng họ đang giúp bệnh tình anh thuyên giảm nhưng tình hình vẫn còn rất tệ và anh phải tiếp tục đến chữa trị.

Khi nhật thực kết thúc, người của nhà Báo Sư Tử sẽ đến tìm chúng tôi… chúng sẽ giết Koh và hầu hết chúng tôi nếu có thể. Trước khi chúng đến được chỗ chúng tôi, tôi phải đánh cắp cho bằng được một lượng thuốc và mọi người phải đến được chỗ hẹn. Và nếu cả hai chúng tôi cùng sống sót, tôi sẽ học cách chơi cờ với chín viên đá và để lại những mẩu giấy ghi chép trong hầm mộ ở Ix để Marena có thể cảnh báo thế giới về dịch cúm gà và làm cách nào đó kịp thời chế ra vắc-xin. Song tôi vẫn không biết “hoa lăng tiêu” đã phá hoại Disney World như thế nào, nhưng đó là vấn đề của lúc khác. Ta hãy gọi nó là mục tiêu khó khăn lâu dài.

55

Có điều gì đó bất thường đang xảy ra với không gian. Như thể toàn bộ không gian ngoài trời đang co dần, nhỏ dần lại thành một căn phòng ngột ngạt. Không, -tôi nghĩ lại, – không phải là không gian, mà là ánh sáng. Mọi vật trở nên rõ nét hơn và gần hơn. Những cái bóng sắc nét hơn. Các dãy đồi, những đám đông và cả lọn tóc vuốt dầu rủ xuống trước trán tôi đều như những hình khắc được chạm quá nổi. Một cảm giác nghẹt lại như thế tất cả các tấm chặn âm của một cây óoc – gan nhà thờ một ngàn ống cùng hạ xuống một lúc. Tôi liếc nhìn lên mặt trời. Nó bị khuyết mất một mẩu ở vị trí hai giờ.

Tôi chưa từng thấy thứ gì khiến tôi nghĩ trên đời có ngoại cảm. Tuy thế, tôi vẫn không tưởng tượng được có người nào đứng ở bất cứ đâu trong thành phố này – ngay cả bị bịt mắt, bịt tai cà nhốt dưới tầng hầm – mà không cảm nhận được sự kinh hoàng vào lúc này. Nó rỉ qua các vách tường đá. Nó thấm xuống tận lòng đất.

Rõ ràng như một cơn đau tim, giọng của Cong Veo Ti Tiện phá tan sự im lặng:

Charháppiti sini, chá jucha phumuári…

Ngươi, với bộ nanh đỏ,

Ngươi sẽ lột da và xua đuổi chúng ta

Chạy trong bóng tối?

Ngươi sẽ không bao giờ quay về

Trái tim của vùng hồ

Trên tầng trời cao?

Thung lũng Teotihuacán vốn có tính năng như một “phòng tiếng vọng” (loại phòng nằm dưới mái vòm hoặc được bao quanh bởi một không gian hình tròn hoặc e-líp, sao cho đứng ở các phòng khác của tòa nhà cũng nghe được những tiếng thì thầm trong căn phòng đó). Với các công trình được trát thạch cao phủ kín các dãy đồi, tiếng vang lại càng dội mạnh hơn. Vì vậy, không nghi ngờ gì, mọi sinh vật đều nghe thấy tiếng lão. Nhưng không có tiếng đáp. Mà cũng không được phép có. Đây là những lời duy nhất lão nói và là những lời duy nhất chúng tôi được nghe trước khi lão ra lệnh cho tất cả gây tiếng náo loạn.

Tôi dán mắt vào cái mũ lông chim đại bàng của Hun Xoc, cách mặt tôi chừng mười hai inch. Có điều gì đó kỳ quặc khác thường trong những thớ lông đan vào nhau. Chúng biến đổi hình dạng và sắc nét ra. Người Nuốt ánh Sáng Đen, hung thần hùng mạnh hơn cả mặt trời, đã làm sứt mẻ cạnh ngoài của mọi vật. Tôi nhìn xuống đám đông đứng trên các bậc thang bên dưới. Chẳng thứ gì không có một đường viền bệnh tật quăn queo và lởm chởm, như thể mọi thớ mềm, mọi đầu nhọn đều đang được gọt tỉa và mài giũa thành hình lưỡi câu, thành hình cái móng tay sứt sẹo. Tôi rung mình.

Tôi nghe ngóng. Tiếng chim chóc gọi nhau đã im bặt. Không nghe thấy dù chỉ một tiếng ruồi vo ve.

Bắt đầu đi thôi, các cậu.

Tôi nhắm mắt trái lại và liếc cái nữa về phía mặt trời. Nó đã teo lại thành một đường mỏng tanh như sợi dây tóc bóng đèn. Ở rìa bên phải, “chuỗi ngọc Baily” (những đốm sáng xuất hiện ở vùng biên tiếp xúc giữa mặt trăng và mặt trời, được đặt theo tên của Francis Baily, người đầu tiên giải thích được chính xác hiện tượng này vào năm 1836) lóe lên giữa các khe núi vây quanh miệng núi lửa Humboldt nằm tít phía chân trời của mặt trăng vô hình. Sẽ tốt hơn nhiều nếu trên trái đất cũng ít người như trên mặt trăng. Như lời thần Dớt phán bảo. Thật là con người sáng suốt nhất trên đời. Mà thôi, đừng mải mê vào chuyện ấy.

Ngoài quảng trường, trên các triền đồi, những đám đông chật ních tỏ vẻ khó chịu và hăm dọa. Lúc này, mặt trời đã được bao quanh bởi một vầng sáng mà người ta vẫn gọi là vòng kim cương. Ranh giới giữa các mảng sáng và tối trên bầu má đầy sứt sẹo của Hun Xoc sắc nét như thể ánh sáng rọi vào qua một lỗ đinh ghim, lớp dầu đỏ thoa trên da nâu sẫm lại, những dải băng xanh lơ thắt trên đầu xám đi, như thể chúng tôi đang đứng dưới ánh đèn hơi natri ở một thành phố rẻ tiền nào đó trong tương lai. Vầng sáng tỏa hào quang rực rỡ quanh cái lỗ đen ngòm trên nền trời như những cái xúc tu có nọc cực độc của loài sứa Chironex (còn gọi là sứa hộp, một loài sứa rất độc). Ra là nhật thực toàn phần, – tôi nghĩ.

Một làn sóng run rẩy, loạng choạng lan khắp đám đông. Anh có thể cảm nhận được hơi thở bị nén lại trong hàng triệu lá phổi, anh có thể đánh hơi thấy sự căng thẳng đến phát điên, thấy nỗi sợ hãi trước viễn cảnh nguồn hơi ấm duy nhất sẽ vĩnh viễn không thể thoát khỏi dạ dày của Người Nuốt ánh Sáng Đen. Tôi, hay chúng ta nên nói là “ngay cả tôi” vì tôi nghĩ cũng công bằng khi công nhận tôi là kẻ ít mê tín nhất ở đây, cũng phải tự nhắc nhở mình rằng việc này chỉ diễn ra trong khoảng một thời gian thôi, và mọi sự rồi sẽ trở lại bình thường.

Phải vậy không?

Tôi lắng tai nghe. Vẫn chỉ sự im lìm dày đặc và trơn chuội. Tôi lại nhìn lên “hai thằng mù sinh đôi”. Vẫn che kín nhau hoàn toàn. Còn chưa đến hai phút nữa. Nào, bắt đầu đi, lúc nào tùy thích.

Lúc nào cũng được.

Mẹ kiếp.

Tôi nhắm mắt lại và lại liếc mắt trái về phía dãy đồi phía tây. Chả có gì.

Tôi nghe ngóng.

Chẳng có gì hết.

Thôi nào. Ra tay đi…

Có thứ gì đó từ phía đông tràn vào thung lũng, một chuỗi âm thanh mảnh như sợi ruy-băng Mylar. Một âm thanh không tên. Tôi đoán rằng thoạt tiên người ta còn không chắc đấy có phải là âm thanh hay không. Và rồi, khi chuỗi âm tiếp tục ngân lên và vang rõ hơn một chút, tôi chắc phần lớn đám đông nghĩ dó là tiếng ve sầu, thứ âm thanh gần giống nhất trong tự nhiên mà người ta có thể liên tưởng. Chuỗi âm lan rộng khắp, hoặc là nhiều chuỗi âm tương tự được cất lên từ những nơi khác. Ngay cả với lớp đệm là ngần ấy cơ thể con người, những chuỗi hợp âm vẫn nảy lên, dội vào các mặt tường của hàng trăm kim tự tháp. Ban đầu, nghe như tiếng chúng vọng đến từ phía đông, sau đó lại như từ phía nam, rồi từ đâu đó quanh đấy, và càng nhiều chuỗi hòa vào, âm thanh càng lớn dần lên, lớn hơn tôi mong đợi, và vang hơn với tiếng ong ong dội lại như thể ông giời đang đùa nghịch với những chiếc âm-li Fender Twin cũ.

Các “đồ đệ” của tôi đã giật thót người khi lần đầu tiên nghe thấy âm thanh này trong một căn hầm bụi bặm đầy phân chuột, giữa bốn bức tường chất đầy vỏ bao ngô. Lúc đầu, họ khiếp vía, sau đó thì thích mê đi, và sau đó nữa, họ phai học cách điều khiển nó. Hãy tưởng tượng như anh chưa từng nghe thấy tiếng vi-ô-lông, đúng ra là chưa từng nghe thấy âm thanh của bất cứ loại đàn dây nào, ngay cả tiếng gảy vào dây đàn cũng chưa. Âm thanh đó trong tai anh sẽ như thế nào? Nó sẽ hơi giống tiếng ve sầu, hơi giống tiếng cưa đá bọt, hơi giống tiếng mèo rên và hơi giống tiếng một bầy ong.

Âm thanh của đàn dây là cả một kỳ quan công nghệ. Không có gì khiến người ta sửng sốt và thôi miên bằng, nó kết hợp được vô vàn âm thanh chói tai với sự lan tỏa. Không gì có thể so sánh được với sóng âm của thứ nhạc cụ này khi nó xuyên vào tai anh. Ngay cả lũ chó cũng phải mất vía vì đàn dây nếu chưa quen. Nó làm tất cả chết sững.

Hiển nhiên, các đồ đệ của tôi – Mười Lăm Con Cua Kéo Đàn theo hình dung của tôi về họ – không bắt chước được đúng hoàn toàn. Thứ mà chúng tôi đang nghe còn lâu mới xách dép được cho Fritz Kreisler (nhạc sĩ, nghệ sĩ vĩ cầm người Áo) hay dàn nhạc Berlin Philharmonic. Thực ra, nó là một đống bát nháo. Và đương nhiên, thứ nhạc cụ họ dùng không hẳn giống xen-lô, hay vi-ô-lông, hay vi-ô-la, hay đi-ru-ba (một loại đàn của Ấn Độ), nhưng cũng là những cây đàn tươm tất,phát ra âm thanh, không cọt kẹt, được xát cô-lô-phan (loại nhựa dùng để xát vào dây và vĩ của đàn dây) đàng hoàng và chơi bằng vĩ hẳn hoi. Và các anh chàng của tôi đã luyện tập đủ thành thạo để cho anh cái cảm giác như khi được nghe thấy nó lần đầu:

56

Khi khúc nhạc được nhắc lại tới lần thứ năm, tôi ngửi thấy mùi phân và nước tiểu bốc lên từ đám đông, thêm cả cái mùi mồ hội thiu thiu, chua chua mà cơ thể thường tiết ra khi hoảng sợ. Có vài anh chàng không chịu nổi căng thẳng rồi, – tôi nghĩ. Aaa, cái mùi sợ hãi ngọt ngào. Ngửi như…sách khải huyền. Tôi cảm tưởng như tiếng đàn đang cắm vào sự sợ hãi trong người họ, móc nó ra, kéo thành từng sợi dài như người ta kéo kẹo bơ, mỏng dần, mỏng dần, cao lên, cao lên mãi cho đến khi chúng cứng lại và gẫy tan thành một cơn hoảng sợ đến mềm nhũn người.

Tôi lấy làm hãnh diện về các học trò của mình. Họ đã luyện tập hết sức chăm chỉ trong sáu ngày vừa qua. Tôi còn có hai mươi thợ thủ công làm việc gần như liên tục tại sân trong nhà cuẩ một khu nhà thợ mộc ở phía bắc khu Kền Kền. Họ là người của nhà Thằn Lằn và rất trung thành với Koh. Quả là những tay rất cừ. Nhưng mọi việc cũng không dễ dàng gì. mặc dù khắp cả thung lũng, người ta đi lại tấp nập, hối hả và âm thầm trong bóng tôi để chuẩn bị cho lễ hội diễn ra sau nhật thực nhưng chúng tôi vẫn phải lén lút, chỉ ra ngoài khi trời tối vì anh không được phép làm ăn buôn bán gì trong thời gian Im Lặng. Lần nào chúng tôi cũng phải đút lót để qua được những toán lính gac quèn của nhà Bướm Đuôi Nhạn. Chúng nghĩ chúng tôi buôn lậu côpan vì ngửi thấy mùi đó trên tay chúng tôi. Với đủ thứ công việc, nào thử các loại vỏ bầu khô khác nhau, chuẩn bị ruột mèo rừng, đẽo cần đàn bằng gỗ tuyết tùng, khắc núm đàn bằng sừng, tính xem làm thế nào để bện tóc người thành từng sợi nhỏ mà vẫn phát ra tiếng khi cọ vĩ vào vì nếu để không chúng sẽ đứt chỉ sau vài lần kéo, thử năm mươi loại nhựa cây khác nhau để tìm một chất thích hợp dùng thay cô-lô-phan và lắp ghép xong xuôi tất cả với nhau trước ngày D chỉ có hai ngày, đây quả là dự án gay go nhất mà lâu lắm rồi tôi mới thực hiện, hơn cả lần thiết kế bể cho lũ sên biểnChromidorus marislae.

Một vài người bạn cũng sẵn là những tay nhạc công chơi sáo khá ổn, ai nấy đều như những con hải ly hăng hái, rất phấn khích trước kế hoạch, háo hức muốn phò tá Rắn Chuông giành lấy mặt trời và sẵn lòng làm tất cả vì công nương Koh. Và họ học tương đối nhanh dù phải tập kéo trong bóng tối. Song họ không hiểu được âm nhạc phương tây ngay tức thì, cũng nhý khi tôi thử ngâm nga ý ử cho Hun Xoc nghe vài ðiệu hát. Có vẻ nhý họ thực sự không thể nghe ðýợc giai ðiệu có phiên khúc, ðiệp khúc và ðoạn kết. tôi cho rằng với những ngýời chýa từng trải qua quá trình tiếp biến văn hoá, chưa từng nghe một hợp âm quãng tám thì hợp âm ấy đơn giản không phải là một điều tự nhiên. Tuy vậy, một khi đã hoà được vào điệu nhạc thì họ không thể ngừng chơi được nữa. và khi chúng tôi thử chơi một đoạn với thang âm hình chóp trong bản xô nát số 1 soạn cho đàn vi-ô-lông mà Prokofiev (Nhà soạn nhạc Nga, tác giả của chính bản xônat đó)từng nói rằng phải chơi sao cho nghe như tiếng gió rít trong nghĩa địa thì tất cả thực sự rung động. Đích thị là các vị thần của cờ Hiến tế đã đúng.

Khúc nhạc được lặp lại đến lần thứ mười, trẻ con khóc ré lên và tiếng khóc choe choé hoà vào với tiếng đàn. Những đám đông chen chúc trên các quảng trường bắt đầu nhúc nhích nhưng chưa di chuyển. Họ chỉ khẽ xô đẩy vào nhau như các phân tử khí bị nén lại để lần tìm một lối chuẩn bi chạy. Chuẩn bị nào, – tôi nghĩ.

Tiếp đi. Giờ đến bước 2.

Tôi nghe tiếng một vài người trên bậc cầu thang bên dưới hắt hơi. Tôi quay lại và nhìn về các quảng trường ở hướng bắc. Bà già và trẻ con đang dụi mắt. Đàn ông thì vặn vẹo người. Tốt.

Quanh tôi, các k’iik cũng vặn vẹo người và khụt khịt mũi.

Tôi cảm thấy thứ mà tôi nghĩ là vết cắn đầu tiên vào chính mắt tôi. Ui da. Tốt.

Tôi ngửi thấy mùi hăng hắc. Cảm giác đau nhó gần cuống họng. Tốt.

Tôi nhìn quanh, các k’iik đứng sau tôi đang xoa dụi khắp mặt. Điều đó có nghĩa là nhóm đồng đảng thứ hai của chúng tôi đã đốt những đống lửa được nguỵ trang kín đáo của mình.

Họ có cả thảy ba mươi sáu người, nấp rải rác trong các sân nhà, sân bếp của mười bốn khu nhà khác nhau, tạo thành nửa vòng tròn tương đối quây quanh mạn đông thành phố. Mấy lớp trên cùng của đống củi là thân cây phơi khô của một giống trường xuân có độc của vùng nhiệt đới, gỗ tùng khô và cây sơn độc khô chứa rất nhiều chất gây chảy nước mắt, không kém gì hơi cay. Ban đầu, thứ khói này gần như vô hình. Nó không phải không có mùi, nhưng mùi đó không có gì đặc biệt. Tôi thấy người đứng trên các quảng trường dọc trục đường chính cũng bắt đầu oằn oại mình, điều đó có nghĩa là khói đang hạ xuống đất. Tốt.

Koh rất hiểu thời tiết vùng này. Cách đây hai đêm, bà ta khẳng định rằng gió hôm nay sẽ nhẹ và vẫn thổi đến từ hướng đông như thường lệ, và rằng khói sẽ tụ lại trong thung lũng. Những kẻ đồng mưu với chúng tôi đã chuyển thứ củi nói trền từ các vị trí ở phía tây sang phía đông, nhiều hết mức có thể. Và đây, mọi việc diễn ra đúng như Koh nói. Họ đã hoàn thành xuất sắc phần việc của mình. Họ đã mua vét củi đun, gỗ cao su loại tồi, và dễ gây nghi ngờ nhất là gỗ sơn, dây trường xuân và hàng đống lá han rồi trà trộn vào đám người hành hương để lén vận chuyển đi từng ít một. Họ phải giấu sao cho các k’iik của thị tộc Bìm Bìm, nhữgn kẻ đóng vai trò giữ gìn trật tự tôn giáo, không nhìn thấy số than sẽ được dùng để nhóm lửa.

Một k’iik đứng trước tôi thả rơi áo choàng. Đó là hiệu lệnh “hãy sẵn sàng”. Tôi cũng cởi nút áo choàng, thả rơi xuống đất và giật lấy cây lao đeo sau lưng. Tôi giở mũi lao bằng đá vỏ chai ra và gắn ba khúc của cán lao lại với nhau. Tuy không có những mối khớp nối bằng kim loại nhưng ba khúc cán lao vẫn khớp vào với nhau đánh cạch một cái khiến anh có cảm giác mình khéo léo lắm (mặc dù chẳng đúng tí nào), không kém gì một tay lính thuỷ đánh bộ lắp khẩu M16 trong vòng mấy phẩy mấy giây gì đó. Trong tư thế hơi khom người xuống, cố sao cho càng ít lộ liễu càng tốt, tôi tháo tấm khiên buộc dưới chân, mở ra và buộc hai thanh ngang thẳng đứng lên, gần như thao tác làm diều. Sản phẩm cuối cùng là một tấm khiên nhẹ nhưng chắc chắn. Tôi dùng sợi dây da hươu buộc chặt cây lao vào bàn tay phải và chiếc khiên vào tay trái rồi đứng thẳng lên. Tôi tháo dải băng buộc đầu dấu dưới hai hòn dái và dùng một tay buộc nó quanh trán, một thao tác mà tôi chẳng đời nào làm được nếu là Jed. Chúng tôi quy ước rằng những người theo phe Rắn Chuông phải buộc một dải băng màu xanh trên đầu để IFF (Viết tắt của “Idenfication, friend or foe” nghĩa là “nhận diện, quân ta hay quân địch”), nghĩa là nhận diện, quân ta hay quân địch.

Nước mắt tôi chảy dàn dụa. Tôi nhắm mắt bên trái lại.

Tôi lo lắng không biết những động tác vừa rồi có gây nhiều sự chú ý quá không. Tôi nhìn xuống các quảng trường. Đám đông vẫn đang cựa quậy và vùng vẫy tứ tung để lần đường trực bỏ chạy.

Ui da. Mắt tôi giật nhói lên một cái. Lần này, một làn khói đen đã hiệu rõ trên đầu. Lớp củi thứ hai có nhiệm vụ tạo càng nhiều khói càng tốt, để che kín hoặc chí ít cũng làm mờ cảnh mặt trời hiện ra. Tôi nhắm mắt phải lại và mở mắt trái ra. Tôi thọc tay trái qua thắt lưng vào trong khố để lấy một cái túi nhỏ. Tất cả những ai tham dự âm mưu này đều có một cái túi như thế. Nó đựng đầy một loại thuốc mỡ làm từ hổ phách cô-pan, sữa ong chúa, cây chữa rắn cắn và trứng chim ruồi. Tôi khều lấy một tý bằng ngón út, ngón tay được coi là sạch sẽ, và quệt nó lên mí mắt phải. Theo thầy lang của Koh, nếu anh cứ nhắm một mắt và mở một mắt, quệt thứ thuốc này lên bên mắt nhắm và liên tục đổi bên thì anh có thể đi trong đám khói mà vẫn nhìn thấy trong một thời gian dài. Tôi đã nghe ở đâu đó nói rằng lính cứu hoả thời xưa cũng dùng một thứ thuốc tương tự. Nhưng xem ra nó không có hiệu quả tức thì. Nhắn nhủ bản thân: nhớ mang một ít về và giới thiệu với Body Shop (Chuỗi cửa hàng mỹ phẩm lớn thứ2 thế giới).

Tôi liếc nhanh một cái lên đỉnh kim tự tháp Bão Lốc.

Đang có chuyện gì đó trên ấy.

Thầy trưởng tế của Cong Veo Ti Tiện không sao nhóm được lửa bằng ánh sáng mặt trời đang bị mây che khuất nhưng họ quyết định gian lận. Kẻ nào đó đã thắp một ngọn đuốc lớn trên tháp mái kim tự tháp Bão Lốc và người truyền lửa, một tên lực sĩ được huấn luyện, vận bộ trang phục kềnh càng và lồng phồng bằng lông chim tẩm dầu mỡ, thò tay vào lửa, quay lại và nhảy xuống các bậc thang như đã sắp đặt trước, và khi lửa đã trùm kín người hắn, hắn lăn vào giữa hai hàng k’iik nhà Báo Sư Tử. Bọn k’iik chuyền nhau đẩy hắn xuống đến “cái mõm” của kim tự tháp khổng lồ ở độ cao bằng vị trí mà tôi và Hun Xoe đang đứng nhưng cách nhau cả một biển người, từ đó, từ đó hắn lăn xuống các bậc thang thấp hơn, xuống đến quảng trường và đâm thẳng vào ngọn tháp tre như không có chuyện gì xảy ra.

Nhưng ngọn tháp đã bắt lửa từ trước. Ai đó, có lẽ là người của Koh, hẳn đã ném hoặc bắn một mẩu than vào đó. Nó cháy bùng lên trước khi tay lực sĩ kịp lăn xuống đến mõm kim tự tháp. Nhưng đằng nào thì đến lúc này, dân chúng cũng chẳng để ý đến nghi lễ ấy nữa. Người ta đang mải nhìn lên trời, ngóng Rắn Chuông và tìm đường chạy, hoặc đánh lộn hoặc chui vào một chỗ nấp. Tôi nghe thấy tiếng các thầy xướng tề của giáo hội Báo Sư Tử trên điện thờ đang rao to qua loa: “Hac ma’al, hac ma’al”, “mặt trời mới, mặt trời mới”, nhưng tiếng rao đầy vẻ hốt hoảng của kẻ biết rằng chẳng ai để ý nghe mình nữa. Quá muộn rồi.

Lúc này, đám đông đã bắt đầu chạy cuống quýt như cảnh trên một phố đông trước khi có cơn bão, khi ai nấy đều bước vội vã để tìm chỗ trú tuy chưa có hạt mưa nào. Một đám mây màu vàng xám lướt ào qua đầu chúng tôi. Ngón lừa bịp mỗi lúc một kém nghệ thuật, ngày càng ít Prokofiev và nhiều tiếng cò cưa hú hoạ, nhưng ồn hơn bao giờ hết. Các bạn hẳn nghĩ đàn dây là thứ nhạc cụ ầm ĩ, nhưng ngay lúc này, chúng đang rên rỉ náo loạn. Tôi nghe thấy tiếng một trong những kẻ đồng loã của Koh goà lên cái câu mà họ đã tập dượt trước nhiều lần: “A’ch dadacanob, a’ch dadacanob”, “ong bắp cày đến rồi, ong bắp cày đến rồi”. Và một giọng khác nhắc lại câu đó, một bà già. Tôi không nghĩ bà ta là chân gỗ của chúng tôi. Chắc các bạn cũng biết cái kiểu người ta thường gào hùa theo những gì cấp trên của họ gào lên. Thêm vài tín đồ cải đạo của Hội Rắn Chuông gào lên, và thêm nữa, thêm nữa, mỗi lúc một nhiều người gào lên và chắc chắn không phải chỉ người của Rắn Chuông. Những tiếng kêu khản đặc, có lẽ do nhiều ngày không dùng đến – lan khắp đám đông như một cơn mưa đá lướt ào qua cánh đồng ngô. Như những tay cổ động chuyên nghiệp, người của Koh nhấn mạnh thêm câu đó và thêm thắt vào những câu đại loại như: “mặt trời đã chết, chúng ta sắp chết, chúng ta chết rồi” và “Ak a’an, ak a’an” “thế là hết, thế là hết”. Xen lẫn vào đó là những tiếng cười…tiếng cười cảu người phát điên vì hoảng loạn, tôi đoán thế. Một vài nhạc công bắt đầu đánh trống và thổi sáo, nhưng âm thanh đó rời rạc và tắt dần khi tiếng la hét thất thần bắt đầu vang lên từ các quảng trường chính. Dàn đồng ca hỗn loạn của các nhạc cụ và tiếng hét xua đuổi mà tôi bẫn nửa có ý chờ không thể cất lên được nữa. Người đứng dưới sân và trên các mái nhà đều run bắn và dựng tóc gáy lên. Quảng trường chợ đông nghịt dưới chân chúng tôi bắt đầu hỗn loạn.

Phần đông dân chúng đều tin chắc đây chính là đàn ong bắp cày – dù có hiện rõ hay không – mà Koh đã tiên đoán và chúng sẽ đốt mù mắt tất cả. Tôi trông thấy bà già, trẻ con, k’iik và bọn dân đen, tất cả đều ngửa mặt lên trời, chỉ tay và hét: “Ha k’in, ha k’in” “Rắn Chuông, Rắn Chuông”, và bất giác tôi cũng nhìn lên. Những cuộn khói dài như sợi thừng uốn éo và lượn lờ, và tôi cược rằng nếu nhìn thêm một lúc nữa, chính tôi cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi cái ảo giác lây nhau ấy, tôi xũng sẽ nhìn thấy Rắn Chuông Sao hiện ra rõ mồn một, trườn xuống từ trên thiên đàng với cái lưỡi thè lè, bộ lông gợn lên và những cái nanh phun ra nọc thiêng.

Ha k’in, ha k’in, Ha k’in, ah a’an, ah a’an, ah a’an, ah a’an…

Sự kinh hoàng lan khắp đám đông như một lời xúi giục: CHẠY ĐI! MÀY MẤT MẠNG ĐẾN NƠI RỒI!!!

Khi đám đông bỏ chạy toán loạn, tôi cảm thấy nền đá dưới đôi xăng đan của mình rung lên bần bật. Tôi hơi loạng choạng một tí rồi cũng đứng thẳng lại được. Sự hoảng loạn chung của quá nhiều người có thể cuống anh vào một đợt sóng của trạng thái mất trọng lượng. nếu anh từng có mặt trong vụ 11 thang 9, hay trong vụ sóng thần ở Ấn Độ Dương, hay trong bất kỳ sự kiện lớn nào khác, anh sẽ hiểu rằng có những thời điểm mà mọi người xung quanh anh đều không biết chuyện gì đang xảy ra. Tất cả nhìn nhau và hiểu rằng chẳng ai biết chuyện gì cả và ai cũng đang nghĩ như mình, rằng tất cả đều sắp bỏ mạng, rằng phần còn lại của thế giới chắc cũng đã bị huỷ diệt. Bầy đàn toạ ra một sứ hút mà anh cảm thấy ngày cả khi cá nhân đang khủgn hoảng. Nhưng nếu là cơn khủng hoảng chung, sức hút đó sẽ biến mất. Đám đông đang cảm thấy sinh mạng của mình chẳng có nghĩa lý gì. Dĩ nhiên, vào thời này, mạng sống của một con người vẫn được coi là vô nghĩa nên người ta thường không đếm xỉa đến. Nhưng nếu nó liên quan đến mạng sống của rất nhiều người thì quả là một vấn đề.

Lúc này, người ta đã bắt đầu chạy nháo nhác. Tôi quay đầu sang trái và nhìn lên Koh lần cuối cùng. Bà ta đang bay xuống gần chúng tôi. Không, chờ đã, bà ta đang được khiêng đi, nhìn cứ như đang ngồi trên một khoang cáp treo bằng người. Trước đó, tôi đã nghe thấy những tiếng kêu gắt gỏng băng giọng mũi, và khi nhìn thấy cảnh này, tôi đoan chắc đó là giọng công nương Vàng, mẹ bề trên, đang gào thét với Koh, nghe có vẻ còn hơn cả án tử hình.

Hun Xoc đập vào cánh tay tôi ba lần.

Vài giây sau tôi mới định thần được để hiểu nó ra hiệu gì. Chúng ta đi thôi. Tôi quay ra sau và đập tay ra hiệu tương tự với Cứt Ta – tu.

Các k’iik đứng dưới tôi đã bắt đầu di chuyển. tôi biến khỏi buổi trình diễn sôi động này thôi.

Tôi nhảy xuống một bậc thang cao mười bốn inch. Một bậc nữa. Một bậc nữa.

Còn mười bốn bậc nữa. Một vài người đàn bà đứng dưới sân đền bắt đầu hát một bài nguyện. Rắn Chuông và thêm nhiều, thêm nhiều người nữa hát theo, tiếng hát và tiếng cười hoà cùng tiếng la hét và tiếng đàn dây tạo thành một thứ âm thanh mà tôi thực sự cho rằng có thể làm bất cứ người nào hoá điên, bất chấp thực tế là chẳng gì có thể khiến người ta hoảng hốt hơn được nữa.

Huỵch. Huỵch.

Qua những phiến đá lát đường trát thạch cao xanh lam dưới chân, tôi biết chúng tôi đã xuống đến quảng trường. Các k’iik chạy trước tôi dừng lại một lát. Họ đi tiếp. Tôi bước theo, hơi bồn chồn.

Lại có hiệu lệnh dừng.

Được thôi.

Tôi dừng lại.Chúng tôi chờ đợi.

Một cú thúc vào ngực. Nghĩa là “vào đội hình”. Tôi thúc vào ngực Cứt Ta-tu.

Tôi nâng tấm khiên lên. Các k’iik xúm lại khít hơn quanh tôi.

Té ra Cá Sấu 12 cũng là một tay có đầu óc tiếp thu, nhất là những gì liên quan đến quân sự nhà nghề. Tôi đã giải thích với ông ta về đội hình con rùa cổ điển, tức đội hình bộ do Alexander Đại Đế (tức Alexander III xứ Marcedon (356 – 323 trước Công Nguyên), vị hoàng đế, vị tướng tài ba đã chinh phạt hầu hết các đế chế lớn mà ông ta biết vào thời đó) phát kiến và được các hoàng đế La Mã thời kỳ đầu sử dụng để chọi lại với các đội quân kém tổ chức hơn từ Scotland cho tới Pakistan. Ông ta rất thích ý tưởng đó và quyết định áp dụng. Mục đích của đội hình này là giúp cho toán quân mở đường qua một đội quân đông hơn với tổn thất tối thiểu. Nói ngắn gọn là các anh phải đứng áp sát vào nhau và giơ khiên lên để tạo thành một cái mai rùa. Những người lính ở vòng ngoài sẽ nâng khiên bằng cả hai tay trong khi những người ở vòng trong chĩa cây lao qua khe hở giữa họ và xọc vào bất cứ kẻ nào lại gần. Nhưng không may, chúng tôi không có những tấm khiên gỗ lớn như người La Mã. Thì có ai làm được mọi việc.

Tôi nâng tấm khiên lên đầu lắp khít với khiên của những người khác.

Tôi được đứng ở vị trí an toàn nhất trong mai rùa. Giống như quả bóng số năm nằm chính giữa hình viên kim cương trong ván bi a chín bóng. Vì thế, tôi không nhìn thấy gì nhiều lắm và tiếng động nghe được chủ yếu là tiếng bước chân lẹt xẹt, tiếng thở nặng nhọc và tiếng cót két của các bộ giáp bằng vỏ liễu.

Chúng tôi chậm chạp tiến lên phía trước, len lách qua đám đông. Vỉa hè ở đoạn này được phủ lá cây trạng nguyên đỏ chói và khi đi qua, chúng tôi đá tung lên cả một trận bão tuyết đỏ. Tôi không nhìn thấy gì phía trước, còn phía sau, tất cả những gì tôi trông thấy là khói bốc lên từ phía nhà của Koh.

Chết thật. Nếu thực sự có đám cháy thì chúng tôi sẽ gặp rắc rối to.

Chúng tôi rẽ sang phía tây của sân đền Rắn Chuông và đi xuống theo các bậc thang ngoài cùng ở hưóng bắc để xuống trục đường chính.

Hy vọng của chúng tôi là ngay cả khi toán quân của k’iik của nhà Báo Sư Tử tìm được chỉ huy và tập hợp lại được với nhau, chúng cũng sẽ không chuẩn bị kịp tinh thần để bảo vệ những vị trí nhỏ và khác thưòng trong khu của mình. Biết đâu chúng lại để kho thuốc gần như không có người bảo vệ. Hừ, chúng ta sẽ biết khi đến nơi.

Oái. Oái.

Hai cú đập vào vai phải. Có nghĩa là chúng tôi sắp phải rẽ phải.

Tôi quờ tay ra sau và đập vào vai k’iik đứng sau.

Chúng tôi rẽ phải.

Mai rùa được sắp xếp lại, dãn dài ra theo hai hướng bắc nam dọc theo trục đường chính và hẹp lại theo chiều đông – tây. Cá Sâu 12 chỉ huy từ vị trí gần đầu, trước tôi ba hàng và cách bốn hàng về phía tay phải. Hiệu lệnh tiến lên truyền đi trong hàng nhanh như vết nứt rạn ra trên tấm kính.

Tôi bị đoàn người đẩy đi, bị chèn giữa cả một đống người và chỉ đủ hơi để thở. Tôi thậm chí có thể nghỉ ngơi bằng cách co chân lên và để người khác lôi đi giữa cái mai rùa. Tôi cảm thấy một lưồng…hừ, tôi đoán các bạn có thể gọi nó là một luồng dũng khí hoặc dũng khí bầy đàn. Tôi chắc đây cũng là cảm giác của các tay lính lê dương.

Quỷ thần ơi, – tôi nghĩ – không gì có thể cản bước chúng ta.

Chúng tôi thẳng tiến theo trục đường chính. Chúng tôi sẽ đi thêm khoảng một phần tư dặm về hướng bắc và trước khi đến gớc tây nam của kim tự tháp Bão Lốc, chúng tôi sẽ rẽ ngoặt sang phải, đi về hướng đông và mở đường vào kho thuốc của nhà Báo Sư Tử. Chúng tôi đã vạch ra tuyến đường trên một tấm bản đồ mô phỏng thành phố và bắt các k’iik ghi nhớ cả đường tiến lẫn đường lùi.

Ngoài đội hình mai rùa, tôi cũng đã giới thiệu với đồng đội một sự cách tân khác: một lời huấn thị rằng không bắt tù binh. Té ra đây là một ttrong những điều họ khó chấp nhận nhất. ở đây, tù bính, chứ không phải đất đai mới là mục đích cuối cùng của chiến tranh. Của cải cũng chỉ xếp thứ hai. Nhưng chúng tôi đã tuyên bố rằng, trong cuộc tập kích lần này, bất cứ k’iik nào phá vỡ đội hình để bắt tù bình thì bản thân người đó và gia đình sẽ bị giáng địa vị và trục xuất. Nhiệm vụ duy nhất của họ là đưa chúng tôi đến nơi càng nhanh càng tốt. Cá Sấu 12 là một viên chỉ huy có tài năng thiên bẩm và xem ra đến lúc này họ đều hiểu cả.

Chúng tôi được hiệu lệnh dừng. Chúng tôi chờ đợi.

Thêm một tín hiệu nữa, phức tạp hơn, bằng ngôn ngữ đi săn của nhà Đại Bàng: Bọn Thằn Lằn đang ở đây.

Tôi cảm thấy toán k’iik hơi đổi hướng và thoáng thấy bóng phù hiệu màu xanh da trời của nhà Thằn Lằn qua lớp người kín mít. Chúng tôi đụng phải sáu nhóm hai mươi, tức là một trăm hai mươi k’iik của nhà Thằn Lằn. Họ ào qua chúng tôi như một con a-míp nuốt con trùng đế giày. Thực ra đi ngược chiều giữa một đám đông hoảng loạn lại là điều rất dễ vì họ sẵn lòng đi vòng qua anh. Cho đến lúc này vẫn chưa có vấn đề gì.

Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã đến Dãy Phố Thần Chết. Với hàng dòng người chạy xung quanh, toán quân đồ sộ của chúng tôi phải lách qua những khoảng trống rất hẹp, đi lên rồi lại đi xuống hàng dãy cầu thang. Lên, xuông, lại lên, lại xuống. Mỗi lần chúng tôi trèo qua một bức tường ngăn cách giữa hai quảng trường, khi đứng lên đỉnh tường, tôi mới thoáng thấy chuyện gì đang diễn ra bên ngoài. Khi leo qua mộtbức tường, tôi nán lại một giây và quan sát kỹ hơn xung quanh.

Ôi chao ôi. Thật kinh khủng.

57

Hàng bầy người từ trên kim tự tháp Bão Lốc tràn về phía các đống lửa đốt bằng lá cây, cờ hiệu và vàng mã. Họ lặc lè vác đến nào rơm rạ, vải vóc và củi đun, lách qua đám đông xúm xít vây quanh và quẳng chúng vào ngọn lửa. Tôi nhìn thấy một k’iik thắt dải băng màu trắng của nhà Bìm Bìm, nhiều tuổi hơn tôi một chút, bế một đứa bé lên và đưa nó len ra khỏi đám đông, tiến về phía các bậc thang của bức tường bao quanh sân, tránh xa ngọn lửa. Anh hùng ra phết nhỉ, – tôi nghĩ bụng. Ít ra cũng có người đang tìm cách cứu người khác. Không phải ai cũng xấu cả. Anh ta đi qua một đám đông bà già ngồi quây thành vòng tròn. Họ ngồi trên những thây người cháy xém, trệu trạo nhai hoa và quả ớt lấy từ các vòng hoa; bên cạnh họ, lũ cháu chắt đang xiết cổ nhau và chặt lấy chiến lợi phẩm từ những cái xác.

Họ đang cười.

Khi chỉ cười, họ đang giúp nhau tự sát. Chẳng hạn, tôi trông thấy một người đàn ông đang chìa cánh tay ra và thách thức một người khác, tôi nghĩ chính là anh trai anh ta, chặt đứt nó. Người anh dùng một chiếc búa trận chém thẳng vào. Phải mất tới ba nhát mới chặt rời được xương cánh tay và cắt đứt được gân cơ duỗi. Sau đó, người anh lại đưa búa cho anh ta và anh ta ra sức chặt đứt cánh tay cho anh, chỉ có điều sức đã yếu quá nên không chặt nổi. Cảnh ấy không khác gì một màn kịch hề man rợ, y như đoạn kể về Hiệp sĩ Đen trong bộ phim Monty Python và chiếc chén thánh, chỉ khác ở chỗ những người này thực sự đau đớn sau khi bị chặt đứt cánh tay mặc dù họ vẫn cười. Tôi còn thấy một lũ đầy tớ lần lượt nối đuôi nhau nhảy từ trên tường xuống các bậc thang và không tên nào đứng dậy nữa. Một thằng nhãi chạy qua vòng người về phía đống lửa. Tôi tưởng nó định nhảy qua. Nó không nhảy qua được đâu, – tôi nghĩ, – làm sao mà qua được. Nhưng thay vào đó, nó dậm nhảy một bước và lao thẳng vào giàn thiêu giữa những tia lửa bắn tung lên. Lũ bạn nó hò reo như thể chúng coi đây là một trò chơi.

Đây hiển nhiên không phải một cuộc nổi loạn theo cách hiểu của người ở thế kỷ hai mốt. Không ai có ý định dựng lên một chính quyền nhân dân nào cả. Về vấn đề này, tôi không nghĩ có bất cứ kẻ nào thuộc một thị tộc thấp kém có thể mong nắm quyền chỉ huy bất cứ thứ gì. Qua trang phục và các dấu hiệu tô vẽ, có thể dễ dàng đoán biết người ta có họ hàng với nhau hay không, và lúc này đây, tôi đang thấy những người anh em, cha con, chú bác đang giết chóc và làm bị thương lẫn nhau, họ xúm lại thành từng đám, đập đầu vào nhau, nhấc bổng người bà lên và ném bà ta lên không trung hoặc cắn vào nhau. Đến cả những người mà không ai được phép động tới cũng quay ra đánh lộn với nhau. Sự phân biệt đẳng cấp xã hội biến mất. Phụ nữ nhảy với đàn ông của các thị tộc thù địch. Bọn phu khuân vác tát nhau với cả lính cầm lao ăn vận diêm dúa của nhà Báo Sư tử, một chuỗi dài gần hai mươi tên nô lệ đã cưa đứt thừng trói tay nhưng vẫn bị buộc chằng với nhau bằng một sợi thừng quấn quanh hông, lôi nhau đi loằng ngoằng như một con rết trên khoảng trống giữa chúng tôi và đống lửa lớn, chộp lấy thức ăn rơi vãi từ các gói đồ cúng và tọng vào mồm. Nếu là một giờ trước thì đây đã là tội chết. Thành phố này đứng trên một hình tháp lung lay của tôn ti thứ bậc và khi anh ẩy đổ vài bậc, tất cả sẽ lộn nhào theo.

Nó không hề giống những gì người ra thường hình dung về một cuộc bạo loạn. Nó chỉ như một lễ hội Thứ Ba Béo lộn xộn hay hay như ngày cuối cùng hỗn loạn của năm học ở trường trung học Jubal mà tôi có tham gia, khi mà các thùng rác bay qua cửa sổ, lũ học sinh lật đổ bàn ghế, xé sách vở và đem rải tung toé khắp các cầu thang. Hoặc giống như khi một đám đông mất bình tĩnh sau một trận thi đấu thể thao và bắt đầu phá phách. Dĩ nhiên, những sự việc đó không so sánh được về mức độ, nhưng tâm trạng của đám đông là tương tự. Không gì có thể đem lại cho ta cảm giác tự do hơn sự chấp thuận cho ta đập phá, cho ta không phải che dấu sự chán ghét cuộc đời và cho ta xả nó ra bằng một hành động quá khích nào đó. Sự phóng túng buông thả là thích hợp nhất với ngày tận thế.

Chết tiệt, – tôi nghĩ. Chúng tôi chỉ định đánh lạc hướng, khiến người ta làm náo loạn lên để chúng tôi có thể lẻn vào, lấy món hàng và chuồn đi. Chúng tôi không hề muốn sự việc vượt ra ngoài tầm kiểm soát đến mức này. Chắc họ không thể muốn đốt trụi nhà mình đâu nhỉ, – tôi tự nhủ, – phải vậy không?

Có lẽ những chuyện như thế này sẽ xảy ra trong mọi hoàn cảnh, chỉ cần pha trộn những nhân tố gây căng thẳng thích hợp. Ở thành phố này, họ đang có sự kết hợp chết người giữa suy sụp kinh tế và nhận thức thấy tội lỗi về tôn giáo như đã xảy ra với PLO (tên viết tắt của phong trào giải phóng Palestin), lấy ví dụ thế. Nhưng cũng như những kẻ đánh bom tự sát, tôi nghĩ động cơ chính cho hành động của họ là cảm giác bị xúc phạm. Họ chưa thực sự sẵn sàng làm theo lời Koh nhưng vì quá phẫn nộ với các thị tộc hậu duệ mèo nên đâm ra sẵn sàng làm gần như bất cứ trò gì. Đối với các tín đồ của Rắn Chuông Sao, ngày đen tối này sẽ giúp họ lấy lại baach, nghĩa là sự bền bỉ, điềm tĩnh, danh dự, chí khí, lòng quả cảm hay bất cứ nghĩa nào khác mà anh có thể diễn giải. Đây là cơ hội để họ trả lại những món nợ cũ.

Thôi thì, chí ít là đến lúc này bọn nhà Báo Sư Tử vẫn chưa đuổi theo chúng tôi. Bài “đánh lạc hướng” có hiệu quả đấy chứ, phải không?

Tôi nhận thấy gã k’iik thắt dải băng trắng của nhà Bìm Bìm đã quay lại chỗ đống lửa. Hắn xách đứa bé bằng cả hai tay, một tay nắm lấy tóc, tay kia tóm vào thắt lưng, đu đưa để lấy đà rồi quẳng thằng con xuống địa ngục như quẳng một bao đất lên xe tải. Đứa trẻ kêu gào trên không trung, dừng kêu khi chạm xuống đám than hồng và lại kêu rít lên, mỗi lúc một đĩnh tai nhức óc cho hết khi hai lá phổi ngập khói.

Hun Xóc tóm lấy tôi bằng hai ngón của bàn tay cầm lao và đẩy tôi đi tiếp. Ở trên này chúng tôi dễ trở thành mục tiêu của phi tiêu lửa. Tôi nhảy qua các bậc thang xuống quảng trường. Chúng tôi chỉnh đốn lại hàng ngũ lần nữa và đi tiếp.

Khi đi đến giữa quảng trường, tôi chợt nhận thấy đám đông phía trước chúng tôi đã dày đặc hơn. Các k’iik đi tiên phong phải quật túi bụivào họ. Tôi bị vấp, lao chúi đầu vào một k’iik đi trước, hoá ra đó là Mưa Bóng Mây 4, người chuyên chữa các vết thương ngoài da. Tốt thôi. Có bác sĩ ở bên lúc nào cũng tốt.

Oạch.

Tôi chẳng nhìn thấy gì cả.

Tôi đưa tay ra sau, dò dẫm và sờ thấy cái vai của Cứt Ta-tu. Nó có một vết sẹo bỏng nên tôi nhận ra. Tôi chỉ vào mắt mình. Thằng bé nhoi người lên, suýt thì làm tôi ngã dúi dụi xuống; nó nắm lấy đầu tôi, dùng ngón tay vạch mí mắt và liếm vào con ngươi tôi.

Đó là thao tác mà tất cả chúng tôi đều đã tập dượt để bôi thêm thuốc mỡ. Người ngoài nhìn vào sẽ tưởng chúng tôi đang nhân lúc rỗi rãi giữa trận đánh mà “làm một tí”. Và quả thực, thậm chí qua lớp vải may chần, tôi vẫn không thể không nhận thấy dương vật Cứt Ta-tu đang dựng đứng lên, cứng như đá. Chỉ là chuyện bắt buộc thôi, tôi định bảo nó. Đừng có nảy ra ý định gì.

Tôi mở được mắt ra. Ahhh. Đỡ hơn rồi. Có thứ gì đó lao vào gần chỗ tôi. Đó là một k’iik của nhà Thằn Lằn. Anh ta chỉ còn là một cái xác mềm oặt. Anh ta đứng ở vòng ngoài của đội hình, bị thương nặng và được chuyển vào giữa. Họ đặt anh ta xuống cách tôi một hàng. Tên nacom, đao phủ của chúng tôi, giúp anh ta chết hẳn bằng cách cắt đứt động mạch nách dưới hai cánh tay.

Điều khó xử ở đây là ai cũng muốn khuân người chết theo. Không ai muốn kẻ thù lấy được xác của người thân của mình. Nhưng Cá Sấu 12 và tôi đã nhắc trước là chúng tôi không có điều kiện làm cái việc xa xỉ đó. Nhưng các k’ikk không chịu được ý nghĩ cứ bỏ mặc người chết lại, còn chúng tôi không muốn họ nghĩ rằng nếu họ bị giết, họ cũng sẽ bị bỏ lại và trở thành nô lệ trên trên ngọn núi dành cho linh hồn của kẻ thù. Vì thế, chúng tôi đã đi đến một thoả thuận. Nacom của chúng tôi sẽ cắt lấy đuôi sam và hòn dái của người chết, đem về cho gia đình anh ta, đâm nát cái xác, xoá các vết xăm bằng một cái giũa, xua hơi thở, tên và uay ra khỏi xác bằng một cái néo nhỏ bằng da cá mập. Tuy thế, Cá Sấu 12 vẫn phải ra lệnh cho các k’iik đứng quanh cái xác, buông nó xuống, hệt như ra lệnh cho hai con chó buông xác con cá chết trên bãi biển.

Chúng tôi lại dừng lại. Máu của người chết dính nhơm nhớp dưới đế xăng đan cao su. Thỉnh thoảng chúng tôi lại thúc cùi chỏ lên phía trước và lần nào cũng bị bật lại, như con chó con húc đầu vào cửa chuồng. Có lẽ chúng tôi không đi tiếp được nữa. Đang có chuyện gì thế không biết. Mưa Bóng Mây 4 bước lên một bước. Tôi cũng làm tương tự, dẫm cẳng chân của cái xác. Vẫn bị đẩy lùi lại. Mẹ kiếp… và đột nhiên cảm giác được thả lỏng, chúng tôi bị cuốn đi mỗi lúc một nhanh. Tôi thả chân xuống đất. Tôi cảm thấy xác người mềm mềm khắp xung quanh. Đám đông phía trước rẽ ra nhường đường cho chúng tôi. Tôi ngóc đầu lên, cố nhìn xem chúng tôi đang ở đâu, nhưng chỉ thấy dải băng buộc đầu của các k’iik chạy đằng trước và xa hơn nữa là cái bóng lờ mờ hình nêm màu vàng đen của kim tự tháp Bão Lốc. Tôi nghe thấy những tiếng rít ám hiệu lặp đi lặp lại, nhưng không phải của chúng tôi. Có lẽ là bọn Báo Sư Tử, – tôi nghĩ. Quỷ tha ma bắt chúng đi. Tôi nhận thấy tín hiệu rẽ trái đang được truyền đi khắp đoàn. Chúng tôi bỗng lảo đảo đứng khựng lại, tôi đâm chúi vào người một k’iik đằng trước, dí cả mặt vào cái dái tai được xăm màu xanh lam của anh ta. Chúng tôi đang chậm chạp luồn vào một ngõ hẹp nằm giữa hai quảng trường. Tốp đi đầu chỉ có thể cho vài người lách vào một lần. Tôi nhận thấy một bàn tay đang gõ vào cổ tay tôi và phát hiện ra nó đang ra hiệu: Đứng gần tôi nhé. Đó là Hun Xóc. Tôi nắm lấy bàn tay, xiết chặt, tỏ ý tôi vẫn ổn. Đến lúc này, chúng tôi đã nghe thấy tiếng đánh nhau thực sự ở vòng ngoài. Không có tiếng loảng xoảng của áo giáp kim loại, đương nhiên. Đánh nhau bằng rìu đá và mũi lao bằng mảnh đá vỏ chai thì chỉ phát ra tiếng động như bước chân lệt xệt và thủy tinh vỡ, thêm vài tiếng lạch cạch, kêu gào, la hét và chửi bới.

Chúng tôi lại tiến lên, cả đoàn lết chậm chạp như miếng bột nhão phòi ra khỏi máy nhào, còn tôi cứ co chân lên để người ta đẩy đi qua một cổng vòm và xuống một cái sân trũng. Tôi thả chân chạm đất, hay đúng hơn là chạm xuống những thân người quằn quại mà chúng tôi xéo lên. Chúng tôi bước tiếp bốn bước vào một khoảng sân khác, đi qua, xuống mười sáu bậc cầu thang, đến một khoảng sân khác nữa. Mười sáu bậc, – tôi nhẩm. Tốt. Vậy là chúng ta sắp đến nơi rồi.

Tôi vấp ngã, lết ba bước bằng đầu gối rồi được Tay 2 và Cứt Ta-tu sốc dậy. Trong khoảng trống giữa hai bức tường của sự huyên náo, tôi nghe tiếng Cá Sấu 12 gào lên ra lệnh cho chúng tôi giữ vững đội hình mai rùa.

Tất cả đi chậm lại. Chúng tôi dừng hẳn. Những đám đông xiết chặt quanh chúng tôi. Au! Mắt trái tôi chớp liên tục không mở ra được. Chết tiệt, đáng ra cái mớ cây leo độc dó phải cháy hết sau một hai phút gì đó cơ mà. Chúng tôi tì vào người nhau, vừa cố giữ vững cái thế đan cài của đội hình vừa ngóc đầu lên để hít tí không khí. Chúng tôi tiến thêm ba bước, xéo lên xác người. Cứ như đang lội qua một khay lasagna (món mì phủ pho-mát bỏ lò của Ý)sống vậy. Có thứ gì đó chộp lấy mắt cá chân trái tôi. Một bàn tay. Tôi lấy chân kia đá vào nó và thế là lộn cổ. Một k’iik đi trước kéo tôi dậy, vẻ cáu kỉnh. Tôi lấy lại thăng bằng và xọc cây lao xuống. Nó động đậy nhưng không buông ra. Tôi lần theo cánh tay lên đến đầu. Cái đầu đó đang cắn mắt cá chân trái tôi. Chết tiệt. Tôi xiên mũi lao bằng đá vỏ chai vào má hắn. Nó đâm xuyên vào và xượt qua bộ răng. Hắn buông ra và thình lình ngóc lên để cắn tiếp, hai mắt nhìn tôi trừng trừng với vẻ điên dại, đầy vẻ căm ghét nhưng cũng không kém phần đờ đẫn. Tôi thọc cán lao vào mắt hắn, rút lên và lại đâm vào miệng. Hắn thả mắt cá chân tôi ra. Tôi rút cây lao ra khỏi người hắn và chúng tôi đi tiếp. Mẹ kiếp. Hắn toi rồi. Mày cho hắn toi rồi. Mẹ kiếp.

Đông quá, – tôi thoáng có ý nghĩ mơ hồ. Mình sẽ bị xô đẩy giẫm đạp đến chết và sẽ chẳng có ai biết chuyện gì xảy ra. Marena sẽ nghĩ mình hèn nhát bỏ cuộc. Cô ta sẽ không biết mình đi được đến nước này, không biết mình làm được tất cả những việc hay ho ra trò này, không biết rằng mình đã thực sự, thực sự cố gắng như thế này. Đáng đời mình vì đi dính vào với lũ cuồng tín. Tất cả lũ người này đều nghĩ chúng có thể bước trên nham thạch. Lũ xuẩn.Todo por mí culpa. Chao ôi, mình mệt mỏi rồi.

Đúng thế. Mệt mỏi quá. Nghỉ một lát đã. Xem chuyện gì xảy ra. Tôi cảm thấy mình khuỵu xuống đúng lúc chúng tôi bắt đầu đi tiếp.

Đi tiếp à? Được. Đi tiếp. Tiến lên. Nửa dặm nữa, nửa dặm nữa, thêm nửa dặm nữa. Hấp. Hấp. chúng tôi leo lên một cầu thang nữa. Leo lên và đi ngang. Lại đi xuống. Tôi túm lấy Hun Xoc và bám như bám vào tấm ván ngang trên thuyền lúc chúng toi bơi qua chỗ nước xiết, giữa một đám chen chúc đầy dầu và mồ hôi.

Đi ngang. Chen lấn. chen lấn. Thêm một cầu thang nữa. leo lên. Lên đi nào, các chú lính bộ binh. Bức tường này cao gấp đôi bức lúc nãy chúng tôi vừa leo qua và khi lên đến đỉnh, tôi liều nhòm ra xung quanh lần nữa. Từ đây, chúng tôi có thể nhìn ra khắp các quảng trường và trông rõ vùng ngoại ô phía bắc và phía tây, cũng như dãy đồi phủ san sát những căn nhà đắp bằng đất thô phía sau. Những cuộn khói bốc lên và lan rộng, chỉ hơi tạt về hướng tây trong bầu không khí lặng gió. Sau đám khói, những dòng người hành hương từ trên sườn núi đổ xuống thung lũng, tạo thành những đường ngòng nghoèo, từ từ tràn về khu teocalli.

Phải đến một phút sau tôi mới hiểu chuyện gì đang xảy ra. Thay vì tránh xa khỏi đống lửa, người ta đang lao về phía nó, vào thành phố, đến trục đường chính, lao vào, lao vào ngọn lửa.

Từ nãy đến giờ, tôi mới thấy có một hai điều đáng sợ. Nhưng đến lúc này tôi thực sự mất vía. tất cả lũ người kia đang lao về đây, xúm lại và giẫm đạp lên nhau cho đến chết như lũ gà tây trong mưa bão. Bây giờ mới là lúc vụ thảm sát bắt đầu. Chẳng khác gì chứng kiến cảnh con tàu lao về phía cây cầu sập. chúng tôi nghe thấy những tiếng kêu rít đầu tiên của những người bị xéo chết, nhưng mới chỉ là mở màn thôi. Sự chết chóc hàng loạt vẫn còn đang trên đường tới. Quỷ thần ơi!

Chúng tôi tính rằng khi lửa bốc lên, người ta sẽ bỏ chạy. Nghĩa là người ta sẽ bỏ chạy khỏi thành phố. Ngay cả Koh cũng nghĩ thế. Có đúng bà ta cũng nghĩ thế không nhỉ?

Cứt Ta-tu tóm lấy tôi và hướng tôi đi về phía các bậc thang dẫn xuống quảng trường. Tôi giằng ra khỏi tay nó. Bỏ ra, tao tự làm được. Tôi nặng nhọc leo qua một dãy sào đổ chồng chất, xuống một quảng trường rộng. Chúng tôi chỉnh đốn hàng ngũ và tiếp tục tiến lên.

Chúng tôi chen vào quảng trường Báo Sư Tử. Một đống lửa cháy đùng đùng ở chính giữa, cách chúng tôi chừng bốn trăm sải tay. Bên tay phải là những bậc thang của kim tự tháp Bão Lốc. Bọn lính cầm lao của nhà Báo Sư Tử chạy ào từ trên đó xuống, in bóng lên đám khói lửa rừng rực bốc lên từ các quảng trường phía bắc. Đống lửa chỉ cách điểm mà chúng sẽ đặt chân xuống chừng bốn mươi sải tay, vì vậy, chúng có thể bị chết cháy ngay khi xuống đến nơi. Rõ ràng là không có lối nào khác để ra khỏi kim tự tháp. Nghĩa là không có cầu thang bên trong, và mặc dù tôi đoán chúng có thể đi xuống qua cầu thang phía sau hoặc bên cạnh nhưng cũng không phải dễ. các bậc cách nhau đến hai mươi sải tay, và thực ra cũng chẳng phải bậc mà là những đoạn dốc, đủ trơn để khó lòng mà bàm vào được. Và, nếu có làm thế chăng nữa thì những đống lửa ở các sân bên cạnh, ở phía đông, sau kim tự tháp cũng đã cháy bùng lên rất to. Vì vậy, chắc hẳn những người ở trên đó đã quyết định rằng cách tốt nhất là cứ đi xuống theo lối bình thường, sau đó đi theo trục đường chính về phía kim tự tháp Phù Thuỷ Ngọc Bích, nơi chưa có đám cháy, rồi theo các con đương thông thường để lên đỉnh Cerro Gordo.

Một hiệu lệnh được truyền đi: hai cái vỗ vào ngực bằng lòng bàn tay, nghĩa là chúng tôi được phá đội hình và đi dọc theo bức tường theo hai hàng.

Chúng tôi thi hành. Tôi ép sát lưng vào mặt tường trát thách cao được trạm chổ. Nó ấm và dính dính.

Chúng tôi lê bước chậm chạp, tiếnvề phía bắc dọc theo bức tường ngoằn nghoèo phía đông, hướng tói con hẻm dẫn vào kho thuốc. Koh đâu rồi nhỉ? – tôi tự hỏi. Bà ta phải bám theo ngay sau đoàn chúng tôi. Chúng tôi đã thoả thuận ám hiệu gọi nhau, nhưng lúc này quá ồn để dùng đến nó. Thôi, cứ lo việc của mày đi đã, Jed. Ấy dà. Tôi thấy nóng. Thực sự nóng. Chỗ da trên nửa người quay về phía đống lửa đang khô cháy và bong ra. Tôi vớ được Mưa Bóng Mây 4 và đứng tránh vào sau người anh ta. Anh ta buộc một mảnh vải áo choàng quanh mặt giống hệt thằng ăn cướp Miền Tây. Ý hay đấy. Tôi giật một dải ruy băng rộng trên tóc và buộc nó quanh miệng.

Hai cú đập vào vai. Rẽ phải. Chúng tôi thu hẹp hàng ngũ và tiến vào một nơi đại loại như lối hẻm dành cho việc hành lễ, nằm giữa hai dãy tường cao với những trụ bổ tường cách điệu hình dáng loài mèo hầm hè đe nẹt chúng tôi. Không có bóng k’iik nào của nhà Báo Sư Tử. Biết đâu chúng sẽ chẳng gây rắc rối gì cho chúng tôi. Chúng tôi cứ thế vào và ra và chuồn đi. Dễ như trở bàn tay. Bây giờ tôi chỉ còn cách hàng ngoại cùng có hai người – đó là những gì còn lại của đội hình mai rùa-nên có thể nhìn qua các cánh cửa khi đi ngang qua. Tôi loáng thoáng thấy cảnh các gia đình ngồi túm tụm lại với nhau, lầm rầm những bài nguyện sám hối.

Chúng tôi đã đến trước một cánh cửa lớn, không phải hình thang cao như cửa của người Maya mà là một hình chữ nhật thấp, to ngang, nằm trên bức tường hai tầng treo đầy mặt nạ mèo nhe nanh màu đen và đỏ.

Cá sấu 12 chia quân. Đa số sẽ đứng chờ ngoài này để bảo vệ lối vào. họ sẽ dọn đường cho công nương Koh và đoàn tuỳ tùng nếu họ tới đây. Ba mươi người còn lại bỏ khiên và lao xuống rồi tiến vào hai người một. Tôi giật lấy cây chùy nhỏ buộc trên đùi trái và quấn những sợi dây da nối ở một đầu chuỳ quanh bàn tay. Buộc chuỳ vào tay thì quả là lạ đời. Hun Xoc và tôi bước qua xác chết của những người canh cửa, đặt chân lên các bậc thang ươt nhẫy và đi xuống một hành lang rộng tối tăm. Lasciate ogni speranza (Từ bỏ mọi hy vọng đi thôi – tiếng ý) . Chúng tôi không có đuốc, nhưng ánh sáng ban ngày ám đầy khói chiếu xuống qua các ô cửa vuông vắn góc cạnh trên trần. Hành lang chạy thẳng về hướng đông khoảng sáu mươi bước chân rồi chia lam hai ngả. chúng tôi rẽ vào ngách bên phải theo chỉ dẫn của Koh. Lối đi hẹp dần lại thành một đường hầm hình thang, ướt sũng làn hơi đặc quánh. Nơi này có cái mùi của sự bí hiểm và xua đuổi, thêm cả mùi bào tử nấm nữa. Ánh sáng biến mất, Hun Xoc dừng lại. Có tiếng đụng độ từ phía trước vọng lại. Đương hầm hơi cong nên chúng tôi chẳng nhìn thấy gì hết. Bực thật. Chúng tôi không nghĩ sẽ đụng phải quá nhiều địch thủ vì hấu hết đang phải ra ngoài tham dự lễ vọng. Nhưng rõ ràng bọn Báo Sư Tử không phải lũ ngốc. Một số tên đã quay về khi thấy có chuyện không bình thường. Chết tiệt. Chúng có thể giam chân chúng tôi lại đây hàng giờ mất… khoan. Tốp phía trước lại tiếp tục tiến lên. Chúng tôi thắng rồi. Ấy, nói hơi sớm đấy. Chúng tôi dừng lại. Đi tiếp. Đi tiếp. Dừng lại. Đi tiếp. Tối như hũ nút. Hun Xoc và tôi dò dẫm bước trên thứ gì đó như xác người. Một cái vẫn đang thở khò khè và khi bò qua, tôi sờ thấy cán của một cây chuỳ. Tôi lần xuống theo cán chuỳ. Nó cắm thẳng vào miệng hắn. Tôi nhổ ra và đi tiếp. Có ánh sáng phía trước. Chúng tôi ra khỏi đường hầm, bước vào một mảnh sân quây kín bốc lên một mùi khó tả, hơi thoáng mùi long não, những bức tường cao trống trơn dựng đứng, khuôn lấy một mảnh trời vuông vắn cách đầu chúng tôi khoảng hai tầng nhà. Tiếng gào thét của thành phố trong cơn hoảng loạn dường như vọng tới từ rất xa. Nền sân êm êm. Đó là đất. Đất đen, màu mỡ. Khoảnh sân đầy cây cối, một giống cây khuynh diệp mà dân đảo thường gọi là indio desnudo (nghĩa là: ngườida đỏ cởi trần). Chúng có lớp vỏ cây màu đỏ, bong tróc từng mảng và hình như có độc. Có cả thảy hai mươi cây, xếp thành bốn hàng ngay ngắn, mỗi cây cao chừng mười sải tay. Cây nào cũng trĩu đầy quả nho nhỏ, mọc thẳng ra từ cành như quả hồng vàng. Tôi ghé mắt nhìn gần vào một cành. Quả cây đó là sên. Hay chính xác hơn, những con sên cây màu da cam vằn đen đang bò khắp các cành. Tôi chưa kịp quan sát thật kỹ thì Hun Xoc đã kéo tôi đi vòng khu vườn đến một cánh cửa thấp. Tôi cúi đầu xuống và bò vào theo Hun Xóc, các khớp chân tay tôi ngập trong bùn ấm và những vũng nước nóng. Chúng tôi lết qua một đống bình vại vỡ và chui qua một ô cửa che bằng một tấm da sống. Hun Xoc đỡ tôi đứng dậy khi vào đến căn phòng bên kia ô cửa. Nó chính là kho thuốc.

58

Đây là không gian trong nhà rộng lớn nhất mà tôi từng bước vào, ý tôi là, ở đây, ở thời cổ xưa này thôi. Nó rộng và dài một cách kỳ cục, sâu hun hút mãi vào bên trong. Hai hàng cột gỗ cổ kính đỡ lấy trần nhà. Chúng được tạc thành hình những người lính canh như trong đền thờ Chiến Binh ở Chichén và mới được sơn lại theo màu sắc của nhà Báo Sư Tử. Ánh sáng ngày yếu ớt chiếu qua các khe nằm cao trên vách tường đá. Hai bên vách này được viền một dãy hốc tường. Chỗ này chồng chất ngổn ngang những cái sọt lớn, bàn thấp, con lăn, chum đựng nước to bằng người thật, chậu, gáo, gầu lọc, nút chai, chày cối, bình, lọ nhỏ và nhiều thứ lỉnh kỉnh khác. Rõ ràng là ngoài ma túy của môn cờ Hiến tế, người ta còn pha chế rất nhiều thứ khác tại đây. Chắc chỉ là những bài thuốc lang băm thôi. Có những rãnh nước nhỏ chảy dọc tường và một bồn đá lớn như bể sục jacuzzi trong phim khiêu dâm với một lũ vịt bì bõm bơi quanh. Ngoài mùi gia cầm bốc lên từ lũ vịt và mùi hôi thối kinh tởm của rác trong nước đọng, nơi này lại thoáng có cái mùi pha trộn giữa nến thơm và thảo mộc như trong các cửa hàng bán đồ nhái ở nông thôn. Những người đếm mặt trời và bọn phụ việc đang lục tung khắp nơi, cuống cuồng kéo những cái chậu đất ra khỏi hốc tường và đập xuống đất vỡ tan tành.

Các k’iik Đại Bàng lao vào, tóm lấy họ và giữ chặt trước khi họ kịp nuốt thuốc độc hoặc cắt mạch máu. Căn phòng đầy tiếng đổ vỡ loảng xoảng và khói mù. Không, không phải khói . Là bụi. Những lão pha chế thuốc, hay đúng hơn là những mụ pha chế thuốc – xác chết nằm cạnh chân tôi là phụ nữ mặc giả đàn ông, vì vậy chắc cách gọi của Koh là đúng – đang lôi các bình đựng thuốc ra khỏi giá và ném hết xuống sàn. Những đám mây bụi vàng cuốn lên và chui qua các lỗ thông hơi phía trên bếp lò lạnh tanh. Tôi nghe thấy tiếng người của chúng tôi sặc và vấp ngã trong đám bụi. có tiếng Hun Xoc gào lên nhắc mọi người bịt miệng lại. Đám bụi ngứa ran bay tung lên khắp người tôi và ngay cả với miếng vải bịt mặt, chúng vẫn luồn được vào mũi và tôi hít phải một hơi, y như một nắm bột cà-ri.

Tôi ngồi phịch xuống nền nhà sũng máu và hắt hơi. Đom đóm mắt như những đốm sáng trắng và hồng nảy loạn xạ trong mắt, kèm thêm những hợp âm quãng bảy nghe phát khiếp. Cho dù thứ tôi vừa hít phải là gì đi nữa thì nó cũng không được Cục quản lý thực và dược phẩm Mỹ cho phép lưu hành.

Sáu k’iik của chúng tôi đã bắt được bốn người pha chế thuốc và ấn họ nằm bẹp trên một đống đồ đạc đổ vỡ giữa căn phòng. Tôi nhìn thấy hai người đang nôn ra máu, có lẽ do thứ mà họ đã nuốt vào. Tôi nhận thấy còn ẩu đả ở cuối phòng đằng kia, nhưng dường như nó diễn ra một cách lặng lẽ và thậm chí rất chậm rãi. Có một cánh cửa nhỏ trên bức tường cuối phòng, một đường hầm thoát hiểm. Vài người pha chế thuốc đang lỉnh qua lối đó.

– Y okol paxebalob’ ah yan yan tepalob’ ah ten, – Cá Sấu 12 gào lên, đại để là “thằng nào ra chặn cái lối đó lại ngay không thì tao nhai hết hòn dái chúng mày bây giờ”. Một k’iik Đại Bàng tập tễnh lao ra phía cửa, tóm lấy một mụ đã luồn được nửa người ra ngoài và lôi trở vào phòng. Một luồng sáng màu da cam lóe lên, tôi ngỡ là có đám cháy, nhưng vài giây sau, tôi nhận ra đó chỉ là đom đóm trong mắt tôi.

Mẹ kiếp, – tôi lơ mơ nghĩ, – mình đúng là thằng rắc rồi.

Tôi ngồi im mười giây, rồi hai mươi giây. Có điều gì đó khiến tôi nghĩ chúng tôi đã ra khỏi căn phòng, đang đứng trong một cánh rừng im ắng, và tôi nhận ra đó là vì âm thanh của buổi đêm, tiếng dế, tiếng châu chấu, tiếng ve sầu và tiếng đồng ca của ếch nhái. Quái thật. Ở đây có vô số loại dế khác nhau, trong những chiếc sọt khác nhau. Sẽ ra sao nếu chúng tôi không tìm được đúng loại? Liệu chúng tôi còn đủ thời gian để khiến một trong mấy mụ này khai ra không? Sẽ ra sao nếu mụ ta nhất định không khai? Như tôi đã nói, những người làm việc ở đây luôn sẵn sàng chết chìm cùng con tàu…

– Hac’ ahau-na-Koh a’an.

Đó là tiếng Hun Xoc đang thì thầm vào tai tôi. Thông điệp này đã được truyền miệng từ ngoài vào đây qua đường hầm: “Công nương Koh đang trên đường tới”.

Trước khi Hun Xoc nói với tôi câu ấy, tôi đã ngửi thấy mùi, cái mùi giống như trong cung điện của Koh, cái hương vị của bờ biển mà tôi không biết gọi là gì, mùi hơi thở của Rắn Chuông Sao. Ở đây, cái mùi đó ngửi rõ hơn trong phòng của Koh, và khó chịu hơn. Giận dữ hơn.

Hai tùy tùng của Koh, hai thầy tế cùng dòng tu, ăn vận như chiến binh với cây chùy dài như cây gậy chống, chui vào, nhìn quanh, đứng dẹp sang hai bên cửa và ra hiệu.

Koh bước vào giữa hai người, chậm rãi, với điệu bộ quý phái quá thể, hết nhìn sang trái lại sang phải. Sao bà ta có thể đến đây nhanh thế nhỉ? – tôi phân vân. Có lẽ bà ta có một lối đi khác và những kẻ đồng lõa khác mà bà ta không cho tôi biết. Hừ, cũng dễ hiểu thôi. Bà ta cải trang thành một chiến binh của thị tộc Bướm Đuôi Nhạn, với tấm áo giáp dài may chần và mặt nạ che kín mặt làm bằng gỗ mỏng, nhẹ và phủ một lượt mảy ngọc lam. Tất cả những gì anh có thể nhìn thấy là hai bàn tay, hai mắt cá chân – một đen, một trắng – và một thoáng cặp mắt dò xét.

Tôi đứng lên. Chúng tôi vẫn bịt giẻ kín mặt nhưng bà ta nhận ra hết – tức là nhận ra Hun Xoc, Cá Sấu 12, Thằn Lằn 1 và tôi – qua các hình xăm và tô vẽ. Bà ta chào chúng tôi. Chúng tôi cúi rạp mình chào lại. Koh tỏ ra quan tâm đặc biệt đến Thằn Lằn 1. Liệu tôi có quên kể rằng thị tộc của ông ta là một thị tộc độc lập ở Teotihuacán và trung thành với Koh không nhỉ? Thôi, dù tôi có không quên đi chăng nữa thì chúng ta cũng cứ nhắc lại. Thằn Lằn 1 là gã đàn ông chắc nịch với cái mũi gãy mà chúng tôi đã thoáng trông thấy trong sân nhà của Nhện Dệt Cẩu Vàng cùng với người mà tôi cho là con trai ông ta, tên là… Ờ, ngay bây giờ thì tôi không nhớ ra tên thằng con. Khỉ thật, cứ rối tinh hết cả lên. Dù sao, tôi cũng cho rằng Koh đã bắt ông ra ngồi chờ trong buổi đầu tiên chúng tôi nói chuyện với nhau, nhưng hoặc ông ta không bực mình về chuyện ấy, hoặc ông ta ở đó là vì việc khác hoặc sao đó, vì bây giờ, ông ta đang là đồng minh tốt nhất của chúng tôi. Thôi, quay về chuyện đang xảy ra đi.

Theo sau Koh là hai tùy tùng ái nam ái nữ khác nữa. Cả hai đều mặc trang phục chiến binh nhưng tôi nghĩ một trong hai người là đàn bà, và thay vì cầm chùy, bà ta bế Chim Cánh Cụt, cô gái lùn của Koh.

Công nương Koh bước dọc theo lối đi giữa dãy bàn cối và hàng cột ở mạn nam. Bà ta đi ngang qua một tốp ba k’iik của nhà Thằn Lằn đang trói một người đếm mặt trời còn sống của nhà Báo Sư Tử, gã kia cứ nhoi đầu lên và cố tự làm mình chết ngạt trong tay họ. Họ ngồi quỳ lên gã và kính cẩn chào Koh như chào người bề trên vô cùng cao quý.

Bà ta nhận lời chào và đi tiếp. Tôi đi theo, bước sau người bế cô gái lùn.

Bà ta đi tới bức tường cuối phòng và chọn lấy một cái bình đất nung lớn có đục lỗ trang trí trên hốc tường thứ ba bên tay trái. Tên đầy tớ của bà ta đỡ lấy, nhấc nắp lên và chìa nó về phía bà ta. Koh thò tay vào.

Tôi nghển cổ qua vai tên đầy tớ. Koh rút tay ra. Nó ướt đẫm, nhỏ giọt và nhìn như vừa bất thình lình nổi đầy mụn. Nhưng khi nhìn gần hơn, tôi nhận thấy đó là những con cóc bé xíu đang bò lổm ngổm trên bàn tay màu đen. Nom chúng giống như cóc tổ ong, phẳng dẹt với cái đầu tam giác và cặp mắt nằm không đúng chỗ trên hai cạnh của cái hình tam giác ấy. Nhưng chúng nhỏ hơn cóc tổ ong, da có màu xanh xám, gần như màu hoa tử đinh hương, trên lưng sẩn lên những quả trứng màu da cam trồi lên một nửa.

59

Khi chúng tôi quay ra đến ngoài sân, tình hình đã xấu đi nghiêm trọng. Người của Cá Sấu 12 rẽ ra cho chúng tôi đi vào giữa mai rùa, hay đúng hơn là những gì còn lại của cái mai rùa. Những mũi lao bay vèo vèo xuống đầu tôi. Một mũi đâm trúng người của Koh. Chúng được ném bổng qua hàng k’iikđứng bên ngoài để gây sát thương cho những người đứng giữa. Điều đó chứng tỏ chúng tôi đang bị tấn công bởi những chiến binh thực thụ, với binh khí thực thụ chứ không phải những cây lao tượng trưng mà họ vác trong lễ hội. Chúng tôi giơ khiên lên nhưng đội hình đã vỡ. Thêm một loạt lao phóng tới. Hun Xóc đẩy tôi nằm xuống và dặn nằm yên. Tôi cố ngoái nhìn sang Koh nhưng bà ta bị cận vệ của mình vây kín. Họ cao và thay vì cầm khiên, họ mang những tấm vải bông trần màu xanh lam, hình vuông rộng và căng chúng lên che kín Koh. Riêng tôi thấy những mảnh vải đó thật ngớ ngẩn, chẳng khác gì mớ khăn quàng điệu đàng mà người ta thường đặt mua ở Missoni Home. Nhưng tôi đoán là chúng cũng có tác dụng.

Khặc. Phổi tôi vẫn có vấn đề. Do ma túy hay chỉ là hết hơi. Những người khác thì sao nhỉ? Họ có sao không? Tôi nheo mắt nhìn quanh.

Bầu trời đã quang hơn, tôi thậm chí còn thoáng nhìn thấy mặt trời qua lớp khói bụi. Nhưng dường như điều đó không giúp thiên hạ bớt hoảng loạn. Một khi con người đã rơi vào cơn điên loạn thì chẳng gì có thể xoa dịu được họ. Hầu hết những con cua kéo đàn của tôi đã ngừng chơi, hoặc bị làm cho phải ngừng chơi, nhưng vài người vẫn đang kéo linh tinh tùy hứng. Vẫn còn tiếng cười vang lên khắp nơi, hàng trăm giọng khác nhau, khúc khích, rúc rích và khành khạch.

Ông ta đến đấy – Hun Xóc khều tay tôi ra hiệu. Cá Sấu 12 đã len vào giữa đội hình.

Ông ta đang nổi cơn tam bành. Cũng phải thôi. Chúng tôi đã đứng đây ít nhất là hai mươi phút. Lâu hơn khoảng mười chín phút so với dự tính. Qua tiếng quát tháo của ông ta, tôi tập hợp được thông tin rằng tám mươi lính của nhà Báo Sư Tử đã phát hiện và bao vây chúng tôi. Và qua tiếng ồn ào vọng đến thì chúng tôi đang thua.

Tôi thậm chí định thanh minh với ông ta. Tôi sợ ông ta sẽ cắn đứt mũi tôi, ông ta đã làm thế với những người khác hơn vài lần, nếu một nửa số câu chuyện tôi hóng được là đúng. Nhưng tôi biết nói gì bây giờ? Rằng chúng tôi đã mất ba k’iik vì hít phải bột thuốc, và rằng chính tôi cũng xơi phải một ít nên tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa? Rằng phải mất thời gian để gom lũ cóc? Và lũ sên, và lũ vịt và nhổ cả một cái cây nữa? Nói thế thì ông ta sẽ lột da sống tôi mất. Trò ấy ông ta chỉ cần ba mươi giây là xong. Tôi nên phân bua rằng dưới đó lộn xộn như lùa mèo ấy. Chỉ có điều ở đây người ta không có cách nào để thể hiện thành ngữ đó.

Theo tôi hiểu thì cách thức làm món thuốc như sau: lũ sên ăn cây, sau đó lũ cóc ăn sên và lũ vịt lại ăn cóc. Tương tự như các sáng tác của Dr. Seuss(Bút danh của nhà văn Mỹ, Theodor Seuss Geisel, các tác phẩm dành cho thiếu nhi của ông được tái hiện lại dưới rất nhiều hình thức như phim truyện, nhạc kịch, phim truyền hình.) vậy. Vì thế, chúng tôi phải thu thập bằng hết những thứ đó. Koh nói loại cây này có thể mọc từ cành cụt. Thế là tốt, tuy vậy tôi vẫn bắt các k’iik nhổ nguyên một cây cả rễ và bọc lại. Tôi cũng không chắc trong đất có gì đặc biệt không nên nhất định đòi lấy cho được hai túi. Chưa hết, chúng tôi còn phải xoay xở với đám tù binh và chúng chẳng ngoan ngoãn chút nào. Vậy là, khi bước ra khỏi cửa nom chúng tôi không khác gì một đoàn du mục Gypsy, vác nào sọt, nào vại, nào gói và thêm cả một cái cây và những gỉ những gì mà Koh nhất quyết không thể sống thiếu chúng. Chúng tôi cũng xoay xở bắt trói được bốn người pha chế thuốc của nhà Báo Sư Tử và hai người đếm mặt trời tám sọ chuyên trông nom việc làm thuốc. Số còn lại đã tự tử chết hết hoặc bị thương quá nặng nên chẳng cần bận tâm đến nữa làm gì. Rốt cuộc, với sáu tù binh và hai mươi người è cổ khiêng đủ thứ, chúng tôi không còn là một lực lượng chiến đấu cơ động nữa.

Và theo những lời ẩn ý của Cá Sấu 12 thì người của Koh chẳng được tích sự gì cho lắm. Bà ta đem theo cả một đội quân tối thiểu là một trăm cận vệ và đầy tớ, đông hơn nhiều so với dự tính của tôi. Chả trách bà ta không muốn cùng đi, – tôi nghĩ. Tôi đã có thể tìm cách cắt giảm bầu đoàn của bà ta. Lúc trước bà ta nói sẽ cho hầu hết tùy tùng chờ sẵn ở điểm hẹn. Có lẽ bà ta là vấn đề rắc rối hơn tôi tưởng. Và đa phần người của bà ta không phải là lính tráng được huấn luyện, họ làm vướng chân vướng cẳng nhiều hơn là hỗ trợ.

Trước đây, khi tôi còn làm việc trên các con tàu nghiên cứu khoa học, chúng tôi thường xuyên gửi động vật đi khắp thế giới, chủ yếu qua DHL (Một công ty cung cấp dịch vụ vận chuyển quốc tế.). Tôi đã gửi và nhận đủ thứ cá, nhện, sên, rắn và nhiều loại khác nữa, không thể nhớ hết được, và chỉ có vài trường hợp chết trên đường vận chuyển. Với hầu hết những con vật đó, nếu anh đóng gói chúng bằng vật liệu mềm và giữ trong bóng tối thì thay vì hoảng sợ như động vật có vú, chúng sẽ nằm yên và chờ đợi sự thể tốt lành hơn. Chúng tôi đã cố hết sức đóng gói thật cẩn thận bốn kiện hàng và mỗi kiện giao cho một người đưa thư trong bốn ngày, vì vậy, chắc chúng sẽ sống sót về đến nơi.

Người chỉ huy toán đưa thư cam đoan với chúng tôi rằng hắn sẽ về đến Ix trong không đầy tám ngày. Nghe có vẻ vô lý nhưng Cá Sấu 12 nói họ biết việc mình làm và hoàn toàn đáng tin cậy. Họ đến từ một thị tộc miền núi dưới trướng thị tộc Đại Bàng vì vậy rất trung thành. Họ được tuyển chọn qua thi đấu và là những người giỏi nhất trong số những người giỏi nhất. Tất cả đều đã sẵn sàng lên đường, với lá thư giới thiệu giấu trong tóc và dao tự sát buộc trên cẳng tay. Họ xúm lại quanh tôi và chúng tôi ôn lại một lượt cách giữ lũ vật nằm yên, cách thay giẻ ướt nửa ngày mỗi lần và khi nào thì ném vào một tí thứ này, một tẹo thứ nọ. Nói tóm lại là những mẹo chăm sóc vật nuôi. Nếu có con nào chết, họ phải cho ngay nó vào một túi muối. Ngay cả khi chúng không sống sót được về đến nơi, Sọ Đá Quý 2 cũng sẽ chôn chúng cùng những ghi chép của tôi về cờ Hiến tế. Và thế là đủ đối với Marena và đội dự án. Tôi hy vọng thế.

Những người đưa tin sẽ phải tìm cách vượt qua vô số đám lính quàu quạu của nhà Báo Sư Tử, phải chạy trước một bước những đội dân binh ở các thành phố khác – họ có thể đã biết sự việc xảy ra ở đây hôm nay qua mạng lưới truyền tín hiệu – phải trộm thức ăn và lén uống nhờ nước.

Song trộm cắp là ngón nghề họ thạo thứ nhì sau chạy nhanh. Chắc họ sẽ làm được. Và một vài con vật có thể sẽ sống sót qua chuyến đi. Không phải là không có hy vọng.

Tôi nhìn vào mắt họ, cố sao cho ra dáng chỉ huy, thử đo nhuệ khí của họ như cách một chỉ huy thực thụ như Cá Sấu 12 vẫn làm. Họ cũng nhìn lại, háo hức, phấn khích, muốn làm vừa lòng tôi. Họ thực sự tin rằng tôi là nhân vật cao quý và sẵn sàng chết vì tôi. Còn tôi thấy mình như thằng ngớ ngẩn.

Việc này không phải vì mày, Jed, – tôi tự nhủ, – đây là vì… gì nhỉ… vì tương lai.

Nhớ tương lai chứ?

Nghe rỗng tuyếch.

Những người đưa tin bốn ngày len qua con hẻm chật ních, chạy về phía đông đến chỗ con đường ở thượng nguồn sông và khuất vào chân núi.

Chúc may mắn, – tôi nghĩ.

Chết tiệt.

Cá Sấu 12 ra lệnh tiến lên. Chúng tôi hành quân về phía tây, hướng đến trục đường chính. Sau tám mươi bước chân, chúng tôi đã ra khỏi con hẻm và tiến vào góc đông nam của quảng trường Báo Sư Tử. Kế hoạch A của chúng tôi là men theo trục đường chính về hướng bắc, đến kim tự tháp Phù Thủy Ngọc Bích thì rẽ sang hướng tây. Ở khu tây bắc thành phố, quanh chúng tôi sẽ là người của thị tộc Kền kền, họ thân thiện với Koh và người nhà Thằn Lằn hơn. Chúng tôi sẽ có thể đến được con đường thông thương lớn dẫn ra vùng hồ.

Đi thêm năm mươi bước, tôi biết chúng tôi không tiến thêm được nữa. Ngọn tháp lửa phía trước cháy quá to. Ba tầng trên cùng đã sập xuống, than hồng và cành cây cháy rừng rực văng tung tóe khắp mặt đá lát đường. Sau đống lửa còn có vô khối rắc rối khác đang chờ. Trên các quảng trường nằm ở mé tây trục đường chính, đám cháy đã lan nhanh hơn chúng tôi nghĩ. Không có cách nào để chúng tôi vượt ra ngoài theo hướng đó. Chúng tôi cũng không thể đi theo đường những người đưa tin vừa đi mà không phải bỏ lại toàn bộ đồ đạc và phần lớn người, chí ít là vậy. Người đưa tin bốn ngày là những chuyên gia về nghệ thuật di chuyển, họ leo lên được vai nhau, nhảy từ đầu người khác, từ mái hiên lên nóc nhà rồi lại nhảy xuống. Còn chúng tôi là cả một đội quân, nhỏ thôi, nhưng vẫn là một đội quân, mà quân đội thì phải có đường để đi. Chúng tôi di chuyển chậm đến mức gần như đứng yên. Hai lính trinh sát vừa quay về. Thực ra chỉ là một lính trinh sát vì người thứ hai mà anh ta cõng trên vai đã gần chết vì trúng phải tiêu độc. Họ đã leo lên nóc tường và từ đó trèo tiếp lên một giàn cúng lớn. Những gì họ trông thấy thật khiến chúng tôi tan nát cõi lòng. Con hẻm ở phía đông, lối thoát dự phòng của chúng tôi, tắc nghẽn vì xác người. Cũng có một số người còn sống và rất nhiều người chết đứng, kẹt giữa người sống. Chúng tôi không thể đi thoát hết qua lối ấy được. Các mái nhà ở khu đông đã bốc cháy và vài cây cầu bắc trên trần nhà đã sập. Tốp cầm khiên ở ngoài cùng đội hình không chống đỡ lâu hơn được nữa. Nói tóm lại, chúng tôi đang chết kẹt. Đơn giản là không có cách nào để ra khỏi thành phố. Chúng tôi phải đứng đây chờ lửa tắt. Nhưng làm thế, chúng tôi sẽ chết cháy nếu lũ Báo Sư Tử chưa kịp giết chúng tôi.

Như một diễn viên nhào lộn, Hun Xoc nhảy lên vai Mưa Bóng Mây 4 để quan sát. Tôi cũng định làm tương tự với Cứt Ta-tu nhưng Cá Sấu 12 đã quay lại và ra lệnh cho tôi đứng yên dưới đất. Rõ ràng là Sọ Đá Quý 2 không muốn mất tôi và đã chỉ thị cho Cá Sấu 12 giữ mạng cho tôi, ừ, được cần đến cũng có cái hay. Hun Xoc nhảy xuống chỗ tôi và theo phản xạ, tôi đưa tay ra đỡ. Nó nhìn tôi với ánh mắt “chúng ta toi rồi”.

Thằn Lằn 1 và công nương Koh len vào chỗ chúng tôi, chúng tôi cầm tay nhau, bước lùi về phía sau tạo thành một vòng tròn. Bắt đầu từ điểm chính bắc, xuôi chiều kim đồng hồ, hội đồng gồm có Hun Xoc, tôi, Cá Sấu 12, Thằn Lằn 1 và công nương Koh.

Im lặng lúng túng.

Chúng tôi nhìn quanh quẩn. Chúng tôi phải đưa ra được quyết định gì đó, ít ra là thế và thực hiện nó.

– Chúng ta phải chiếm kim tự tháp Bão Lốc, – Koh nói qua tấm mặt nạ.

Tất cả quay sang nhìn bà ta.

– Lửa sẽ không cháy được đến đền thờ trên kim tự tháp, – bà ta nói thêm. Tôi tưởng bà ta sẽ nói tiếp câu gì đó, nhưng không.

Thằn Lằn 1 có ý kiến rằng điều đó thậm chí còn khó hơn việc chúng tôi đang làm. Không dễ gì mở được đường lên vị trí cao hơn. Hơn nữa, bọn Báo Sư Tử trên đó đang tìm cách chạy xuống. Chính chúng còn không nghĩ nó có thể bảo vệ chúng khỏi ngọn lửa, vậy tại sao chúng tôi lại nghĩ thế? Vả lại, lớp tường ngoài sẽ bốc cháy khi đủ nóng. Ngay cả khi chúng tôi lên được đến đền thờ, chúng tôi cũng sẽ chết ở trên đó thay vì chết ở đây.

Không ai nói gì.

Koh khá thông minh, – tôi nghĩ. Chắc hẳn bà ta nói đúng. Phải vậy không? Phải đấy. Lên tiếng đi, Jed.

Tôi nói – đúng hơn là khò khè – rằng tường của kim tự tháp Bão Lốc được phủ một lớp vỏ trai chứ không phải được trát thạch cao, sơn và phết dầu như các kim tự tháp khác. Nó sẽ không cháy, thực tế, nó còn có thể phản xạ nhiệt – tuy tôi không thực sự khiến họ hiểu được vấn đề này – và cứ thế này thì đằng nào chúng tôi cũng sẽ chết ở đây. Bọn Báo Sư Tử lao xuống vì chúng hoảng hốt chứ không phải vì chúng đã cân nhắc hết nước hết cái. Thêm vào đó, nếu nhiều người đã chạy xuống thì sẽ có chỗ cho chúng tôi trên đó. Chúng tôi có một cơ hội trên đó còn dưới này thì không, chỉ có vậy thôi, ý kiến của Koh là đúng.

Lại im lặng. Có lẽ tất cả đều đang lắng tai nghe tín hiệu từ rìa ngoài đội hình, hy vọng cuộc chiến chuyển biến có lợi cho chúng tôi. Tuy nhiên, điều đó chắc sẽ không xảy ra. Những tiếng gào duy nhất mà chúng tôi nghe thấy là tín hiệu báo nguy, những tiếng quạ kêu từ người của Thằn Lằn 1, nghĩa là “chúng tôi không chống đỡ được lâu hơn nữa”. Một loạt lao phóng tới và cắm phập vào các k’iik đứng cách chúng tôi có một tẹo.

Nào, nhanh lên, – tôi giục thầm trong bụng.

Chúng tôi không bỏ phiếu. Ai nấy chỉ ra hiệu bằng mắt: “đồng ý”.

Cá Sấu 12, Thằn Lằn 1 và Koh cùng ra một mệnh lệnh cho người của mình. Nó được truyền khắp đội quân: “Tấn công kim tự tháp Bão Lốc”.

Trước tiên, chúng tôi phải mở đường phía bên phải và thẳng tiến về hướng Bắc. Cá Sấu 12 quay lại vị trí chỉ huy ở đầu đoàn. Ông ta ra lệnh cho người của mình giữ đội hình rộng. Nếu chúng tôi để hàng ngũ kéo dài và mỏng, bọn Báo Sư Tử sẽ thọc được vào giữa và thế là chấm hết.

Thêm một phút chờ đợi khó chịu. Tôi cố hình dung ra đội hình trông như thế nào khi nhìn từ trên xuống. Có lẽ nó giống như cái kẹo mút, với một hàng dài chen chúc trong ngõ hẹp và một đầu tròn tròn, cố thúc vào quảng trường Báo Sư Tử. Một vòng tròn k’iik Báo Sư Tử quây quanh phần kẹo và phía sau chúng là đám đông người hành hương và dân thành phố đang đổ xô về quảng trường mỗi lúc một đông.

Chúng ta sắp tiến lên đấy, – Hun Xoc ra hiệu.

Tôi nâng khiên lên.

Con rắn di động của chúng tôi dừng lại, như thể nó đang thu mình và rồi, khi Cá Sấu 12 ra lệnh tấn công, chúng tôi lao vào quảng trường. Ngay lập tức, chúng tôi rẽ phải và bám dọc theo bức tường cao phía đông quảng trường. Ít ra thì nó cũng che chắn một bên cho chúng tôi. Nửa người bên trái của tôi đã nóng rát vì lửa.

Chúng tôi hành quân. Bọn báo Sư Tử tấn công vào bên sườn, chỉ còn ba người ở bên tay trái tôi. Một vài k’iik của chúng tôi ngã xuống và chẳng ai buồn nhặt xác họ – việc này cũng giống như trao cho kẻ thù tấm vé tự do được nguyền rủa anh đến đời thứ “n” và cho anh hiểu rằng mọi chuyện có thể trở nên tuyệt vọng đến mức nào. Mẹ kiếp. Nóng. Da trên vai tôi bắt đầu bong ra. Nóng ra. Nhưng chúng tôi vẫn bị đẩy về phía đống lửa. Làm sao đám đông dân thường cứ lao vào được nhỉ?

Đi tiếp. Đi tiếp. Chẳng nhìn thấy gì cả. Chuyện gì đang diễn ra nhỉ? Nóng thật. Mẹ kiếp. Tôi nghe thấy âm thanh của một trận đánh đẫm máu ở rìa ngoài mai rùa. Ngoài ấy thế nào rồi nhỉ? Tôi nhìn ra phía sau nhưng không trông thấy người của Koh. Còn cả lũ động vật nữa. Phải ra khỏi chỗ này bằng không chúng sẽ bị nướng chín. Mẹ kiếp.

Tôi ngừng suy nghĩ lan man. Chúng tôi lại rẽ phải, đụng phải một dòng người đang chạy ào xuống các bậc thang. Chí ít thì họ cũng không phải chiến binh. Đó là giới chức sắc, quý phái. Những người già. Chúng tôi lao vào giữa dòng người. Dòng người chảy xiết quanh chúng tôi, ngạc nhiên trước cuộc tấn công nhưng muốn tránh xa hơn là đụng độ. Chúng tôi tiến tới cầu thang, những bậc cấp dưới thấp phủ gần kín thây người. Một vài k’iik Đại Bàng của Cá Sấu 12 bước lên vài bước trước tiên, xọc mũi lao vào bọn Báo Sư Tử đang tiếp tục chạy xuống. Phần còn lại của đội hình lẽ ra phải lao lên theo họ.

Nhưng tôi cảm thấy các k’iik xung quanh ngần ngừ. Nhất là người của nhà Thằn Lằn, họ đứng lại, miệng lầm rầm. Tôi nhìn lên. Qua vai Mưa Bóng Mây 4, tôi trông thấy khu đền thờ cao ba tầng trên nóc kim tự tháp đang quắc mắt nhìn xuống qua màn khói bụi nâu nâu. Tôi cảm tưởng như nó ở rất xa và có vẻ gì đó khiến người ta muốn thoái lui. Hai cửa sổ lớn hình chữ T tạo thành cặp mắt, bốn khuôn cửa trên tầng điện thờ thấp nhất tạo thành cái miệng nhe ra với hàm răng khổng lồ. Có thể dùng cách diễn tả rằng vẻ mặt đó điên dại hoặc man dại. Toàn bộ đền thờ cho ta cái ấn tượng là nó cách xa ta như đỉnh Eiger so với khu làng Interlaken. Một gã khổng lồ độc ác. Các ngươi không bao giờ lên được chỗ ta đâu, – gã nói và cười vang.

Nếu là một ngày bình thường nào đó, đối với bất kỳ kẻ nào trừ người nhà Báo Sư Tử, leo lên những bậc đá này đồng nghĩa với cái chết. Và không đơn giản là cái chết vì bị hành hình, nó là cái chết mà ngay cả người ở thế kỷ hai mốt cũng phải coi là siêu nhiên. Cũng giống như nông nô thời trung cổ, bước vào giáo đường của thánh Peter và ỉa lên bàn thờ. Hắn sẽ bị sét đánh vào lỗ đít mà chết. Kim tự tháp Bão Lốc là một tổ ong khổng lồ, nơi trú ngụ của những con mèo độc ác và đầy quyền lực, những con dã thú ghê gớm có thể giết người chỉ với một ý nghĩ, những kẻ cai trị tầng thứ không kể từ khi thời của chúng bắt đầu. Chẳng ai dám lằng nhằng với nhà Báo Sư Tử, kể cả người sống lẫn người chết, mà nhất là người chết.

Bằng cách nào đó, Koh đã len lên đầu đội hình với các cận vệ áp sát hai bên, bà ta bước qua những cái xác trên bậc không – bậc thấp nhất – bước lên bậc thứ nhất, rồi bậc thứ hai. Các bậc thang cách nhau rất xa, bà ta phải trèo từng bậc một bằng cách đặt một chân lên trước, sau đó là chân kia, bước hai bước hết bề ngang bậc thang đó rồi lặp đi lặp lại với bậc tiếp theo. Nhưng bà ta đi rất đường hoàng. Ở bậc thang thứ ba, bà hơi loạng choạng một chút, nhưng tên cận vệ bên tay trái chỉ phải đỡ bà ta có một giây trước khi bà ta đứng vững trở lại. Trong lúc đó, đám k’iik nhà Báo Sư Tử hò reo ngay sau lưng chúng tôi, một cây lao bay vèo qua đầu và đâm xuống bậc thang cách bà ta năm sải tay về phía bên phải. Bà ta bước lên một bậc nữa.

Việc này ngay cả Koh mười ngày trước đây chắc cũng không dám làm. Có lẽ chỉ từ khi gặp tôi bà ta mới trở thành người theo chủ nghĩa hoài nghi. Hoặc cũng có thể bà ta luôn dám làm điều này. Dù sao, đôi khi chỉ cần một người lên tiếng chống đối chính quyền và tất cả những người khác sẽ làm theo. Khi nhìn thấy Koh bước lên đó, đứng hiên ngang, không hề run rẩy, không hề ngần ngại, thì cả đoàn quân chúng tôi, từ đầy tớ của nhà Rắn Chuông đến người nhà Thằn Lằn và thậm chí cả các k’iik Đại Bàng đều tin rằng vị thần bảo trợ đang ở cạnh bà ta và rằng Rắn Chuông Sao đã thắng trận trên trời, thế là họ leo lên theo, hò reo những tiếng hét xung trận như thể trận đánh bây giờ mới bắt đầu. Đến lúc này, nếu có thấy Koh đi trên mặt nước hoặc biến thành người khổng lồ trăm tay, hay lột xác thành chính Rắn Chuông rồi nuốt chửng toàn bộ thành phố cũng như các vì sao đi nữa thì chắc họ cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên. Dù thế nào, các k’iik Thằn Lằn cũng đã xông lên, các k’iik và tôi tớ nhà Rắn Chuông theo sau, và cái đuôi còn lại của nhà Đại Bàng trong đó có tôi cũng tiếp bước. Tôi hăng máu lên và gần như lao vụt qua những bậc đầu tiên, dẫm lên cả một núi xác chết ăn vận diêm dúa. Hệt như đang leo qua một thác nước nhưng thay vì nước lại là kẹo thạch. Đến bậc thứ tám, tôi chạy chậm lại. Cố lên, Jed. Đi tiếp đi. Kinh quá. Đi tiếp đi nào. Cuối cùng, tôi cũng cảm thấy dưới tay mình là nền cầu thang thật sự, trát thạch cao ram ráp. Tôi bò lên bậc tiếp theo. Ha, chúng ta đang ở trên cầu thang rồi. Lên nữa đi. Tiến lên, đôi vai phồng rộp. Leo cao lên.

Leo lên. Cố lên. Bước tiếp đi.

Leo lên. Mệt quá. Cố lên.

Thêm một bậc nữa. Hừ, còn ba trăm sáu mươi bậc thôi. Không thành vấn đề. Lên đi.

Tôi nhận ra mình đã thả rơi tấm khiên và đang bò bằng cả tứ chi. Sao cũng được. Hấp. Hấp. Cố lên. Không cần bận tâm năng lượng đến từ đâu, chỉ cần bận tâm ta sẽ dùng nó vào việc gì. Lên nữa đi. Lên nữa.

Các k’iik Đại Bàng gạt lũ Báo Sư Tử ra khỏi đường đi của Koh chỉ trước có hai bậc. Tàn lửa bay vù vù quanh chúng tôi, lũ chó tru lên, tiếng sầm sầm và xoang xoảng vọng đến từ các mái nhà đang sập xuống, một cái xác phủ kín vảy ngọc bích lăn lông lốc từ trên cao xuống, đâm sầm một cái và dừng lại. Tôi gặp tí rắc rối trong việc bò bằng tứ chi vì tay phải vẫn vướng cây chùy. Tôi bỏ ra một giây để dùng tay kia giật nó ra nhưng hình như nó đã bị buộc chặt vào tay tôi. Tôi dùng răng kéo các sợi dây và tháo tung chúng ra, nhưng cây chùy vẫn không rời khỏi tay. Mẹ nó, úi dà. Gió hơi chuyển hướng và một luồng hơi nóng từ đám cháy tát qua người chúng tôi. Tôi leo thêm được tám bậc nữa. Tôi nghe thấy phía trên, Cá Sấu 12 đang bảo Koh dừng lại một chút. Bà ta dừng lại ngay chính giữa một bậc thang, tôi và Hun Xoc đi ngang qua bên tay phải. Tôi có thể với tay ra và chạm vào bà ta nhưng đám cận vệ đã chạy vội đến và dùng những mảnh vải xanh quây kín lấy bà ta. Tôi đi tiếp. Về phía trước và lên cao. Mười bốn bậc. Tám bậc.

Hộc.

Tôi đè hai tay xuống bề mặt nhờn nhờn của các bậc cầu thang, kéo bàn chân lên, cố không để cẳng chân bị trầy xước vì chà xát vào cạnh cầu thang mài sắc.

Bốn bậc.

Cố lên.

Hai bậc. Hộc. Mày hết hơi rồi, người anh em ạ, – tôi tự nhủ. Nếu có Chacal ở đây, anh ta sẽ nổi điên lên. Anh ta từng là tay vạm vỡ nhất hội, vậy mà sau vài ngày lạm dụng, mày đã biến anh ta trở thành một gã yếu đuối nặng vỏn vẹn chín mươi tám pound.

Thêm một bậc nữa đi.

Xong rồi. Một bậc nữa nào.

Xong. Tốt rồi.

Hu… u…

Nếu anh đã từng đến thăm quan nơi này, anh hẳn phải biết leo lên kim tự tháp mất thời gian đến mức nào, ngay cả khi trên người không có sức nặng của áo giáp và vũ khí, không bị kiệt sức vì đánh nhau, không mất máu và không phải cự lại với những kẻ từ trên đó chạy xuống. Cần phải nói thêm rằng khoảng cách giữa các bậc thang cao hơn rất nhiều so với những gì người ta phục dựng lại sau này. Các bậc thang cao hơn, chúng tôi thì nhỏ bé hơn, và chúng tôi đã cạn sức.

Thôi nào, cố lên. Một bậc nữa.

Những bậc thang này đâu phải được xây để đi lên xuống. Chúng được xây để hăm dọa thiên hạ.

Thêm một bậc nữa nào.

Được rồi.

Một nữa. Bước lên. Tốt. Một nữa. Bước lên. Hộc.

Bước lên.

Huỵch. Không được.

Nào, leo lên đi.

Tôi thử lại lần nữa. Không được. Ngực tôi gập xuống thành một góc nhọn. Tôi lui lại và tì đầu gối vào khe giữa hai bậc cầu thang.

Không thể đi tiếp được nữa. Cho tôi đứng lại đây một phút đi. Nhưng chuyện gì đang diễn ra bên ngoài thế nhỉ? Tôi ghé mắt nhìn lên trên.

Các bậc thang rộng đủ cho hai mươi người đứng trên một bậc và chúng tôi phải dàn hàng ngang đội hình ra để chắn hết lối đi, vì thế, Cá Sấu 12 và toán lính tiên phong của ông ta chỉ cách tôi có ba bậc thang. Đám người ở trên tìm cách chạy xuống trước khi chúng tôi lao lên, đang dùng những cây lao làm cảnh đâm vào các k’iik của chúng tôi, tìm cách đẩy họ xuống. Nhưng lũ Báo Sư tử này hầu hết đều đã lọm khọm, lại còn vướng víu với bộ y phục lễ hội nặng nề và cái mũ cồng kềnh mà kỳ cục làm sao, chúng không cởi phứt ra. Chỉ có khoảng một trăm hai mươi người, lấp đầy năm hay sáu bậc cầu thang, phía sau chúng, các bậc thang dẫn lên đền thờ gần như trống trơn. Trong lúc tôi giương mắt ra nhìn, Cá Sấu 12 hét lên, ra những mệnh lệnh mới cho các chỉ huy dưới quyền ông ta và họ truyền đạt lại cho các k’iik khác. Họ dần dần sắp xếp lại đội hình. Quan sát từ chỗ tôi đang đứng co ro đây, hình như Cá Sấu 12 đã bố trí những người giỏi nhất giữ bên cánh trái, tức là hướng bắc, và những người yếu hơn cắm bên cánh phải. Sau đó, ông ta ra lệnh cho cánh trái lao lên vài bậc, trong khi các k’iik ở cánh phía nam lùi lại một chút, và trong lúc lùi, một vài người đồng thời dẹp vào trong, để trống ra một khoảng. Tiếp đến, cả đội hình tiến lên hai bậc, khiên chắn trên vai, lao vào hàng ngũ lộn xộn của lũ Báo Sư Tử già. Một vài tên lăn xuống qua cánh phải của cầu thang. Chỉ có những tiếng phịch, phịch khi chúng đâm vào biển thây người trên quảng trường bên dưới.

Cá Sấu 12 không ra thêm mệnh lệnh nào. Chúng tôi tiến thêm hai bậc, thêm vài tên Báo Sư Tử lăn xuống, hoặc bị đẩy xuống qua khe bên phải cầu thang. Và tôi nhận ra Cá Sấu 12 đã làm một việc hết sức khôn ngoan. Ông ta đã sắp xếp toán lính tiên phong thành một hình vát – nghĩa là cánh trái của đội hình đứng cao hơn cánh phải tám bậc. nếu các k’iik ở hàng đầu cứ che khiên tiến lên và nếu họ giữ vững đội hình như thế này, họ sẽ quét được lũ Báo Sư Tử khỏi cầu thang bằng cách đánh bật chúng khỏi vị trí ở cánh trái, đánh túi bụi và lăn chúng sang tay phải rồi đẩy chúng xuống ở cánh bên kia, giống như chiếc bào đặt nghiêng trên tấm ván và lóc từng lớp phoi bào khỏi bề mặt gỗ.

Mẹ kiếp, – tôi nghĩ, – biết đâu lại thành công.

Chúng tôi tiến thêm hai bậc nữa.

Đằng sau thế nào rồi nhỉ? – tôi tự hỏi.

Tôi biết là không nên quay lại nhìn nhưng vẫn cứ làm. Sai lầm.

Mặc dù tôi mới ở độ cao chưa được một phần ba kim tự tháp nhưng khoảng không sâu hun hút vẫn nắm đầu tôi kéo xuống, tôi cảm giác như mình đang rơi xuống các bậc cầu thang và tất cả những gì tôi nên làm là thả lỏng, phó mặc cho lực hút của Trái đất, chỉ cần thế thôi, mọi chuyện sẽ dễ dàng và ổn thỏa. Tôi bấm chặt những móng tay xuống nền cầu thang vấy máu.

Những tiếng gắt gỏng lo lắng từ phía trên vọng xuống. Bọn Báo Sư Tử đã quay lên các bậc thang cao hơn, lăn đá và xác chết xuống chỗ chúng tôi. Một khối gì đó to tướng đùng đùng lao tới, đẩy ngã một k’iik ở hàng đầu và dừng lại cách tôi hai bậc. Quỷ tha ma bắt nó đi. Nếu chúng tôi mất kiểm soát và lùi bước thì mọi chuyện sẽ chấm hết. Một người ngã có thể khiến nhiều người chùn bước. Các k’iik ở hàng đầu nhìn trân trân vào anh bạn chiến đấu bị đè nát và hạ khiên thấp xuống. Cá Sấu 12 ra lệnh cho họ che khiên hơi lệch về phía nam. Họ tuân theo và các tảng đá và xác người bắt đầu trượt qua mà không gây hề hấn gì nhiều. Chúng tôi tiến lên. Hai bậc đầu tiên được vượt qua với ít nhiều thiệt hại. Rồi bốn, rồi tám. Các k’iik Thằn Lằn lê bước nặng nề quanh tôi. Chắc họ nghĩ tôi bị thương. Một hoặc hai lần, có người đỡ tôi dậy nhưng tôi xua tay. Tôi không sao, anh bạn. Tớ chỉ dừng lại thư giãn tý thôi.

Tôi tì trán vào mép bậc thang. Ah. Tôi nhận thấy cây chùy không biết cách nào đã tuột được ra. Tuy nhiên, bàn tay phải tôi vẫn nắm chặt và không tự mở được. Tôi dùng tay trái gỡ nó duỗi thẳng ra và đặt lên nền thạch cao âm ấm. Aaahhh. Sung sướng quá. Thêm một giây nữa thôi. Các k’iik Rắn Chuông lặc lè leo ngang qua. Tôi nhìn theo những chiếc vòng cổ chân bằng vỏ ốc nón của họ lóc xóc như chuông lục lạc. Hun Xoc đâu nhỉ? – tôi tự hỏi. Cứt Ta-tu nữa? Không sao, sẽ tìm thấy họ ngay thôi.

Tôi nhắm mắt lại. Chết tiệt, tôi vẫn còn bị những chớp lóa ảo giác màu cam ngu xuẩn do bột ma túy. Tôi nuốt vài ngụm không khí. Bây giờ nó đã có mùi mỡ cháy; mùi thịt nướng của qủy Sa tăng. Nó khơi dậy nhận thức bản năng rằng chỗ này là chỗ chết và cần phải bỏ chạy ngay lập tức. Tuy thế, không khí trên này vẫn là không khí thật sự. Ít nhất thì chúng tôi cũng thoát được những đám khói. Nên mang lũ động vật ấy lên đây, – tôi nghĩ. Động vật lưỡng cư rất nhạy cảm. Chúng không thể hít khói mà sống được.

Một bàn tay chạm vào cổ tay tôi. Tôi mở một mắt và nhìn lên.

Cứt Ta-tu và hai k’iik của nhà Thằn Lằn đã quay lại tìm tôi. Họ cầm tay xốc tôi dậy và khiêng tôi leo về phía đền thờ. Tôi cố giúp họ nhưng hai bàn chân cứ thõng xuống, chẳng được việc gì hết. Một k’iik Thằn Lằn giơ tấm khiên phủ một chiếc áo choàng ướt để che cho tôi khỏi hơi nóng. Dẹp ra nào, – tôi nghĩ thầm, – nhường lối cho VIP. Chúng tôi đặt chân lên cái mũi, tức là một kim tự tháp nhỏ, đỉnh bằng phẳng, nhô ra ở sườn kim tự tháp lớn và tiếp tục trèo lên.

Một cái xác Báo Sư Tử cỡ vừa lừ lừ lăn về phía chúng tôi như tảng đá lăn xuống một rãnh núi dưới đáy biển. Cứt Ta-tu đứng vào tư thế chặn bóng của cầu thủ bóng hông, chặn cái xác lại và lái nó lăn sang phải bằng hai cú đá. Tốt lắm, – tôi nghĩ, – ký cho thằng nhãi này cái hợp đồng thôi. Nó kéo tôi lên tiếp.

Tôi nghĩ mình thậm chí đã ngủ gật mất vài giây. Các bạn có thể cho rằng thật gay go nếu ngủ quên giữa trận đánh, nhưng trên thực tế, chuyện đó rất thường xảy ra với binh lính. Chất adrenaline trong người họ cạn sạch và phịch, họ ngả đầu lên cây súng và ngáy khò khò.

Cuối cùng, Cứt Ta-tu đặt tôi xuống.

Trên này gần như mát mẻ. Tôi mở cả hai mắt ra.

Tôi đang quỳ bằng cả tứ chi, nhìn xuống một sàn nhà lát vỏ sò bằng bạc. Những mảnh vàng lấp lánh nằm rải rác trên nền bạc và khi ngước lên, tôi trông thấy có hàng chục ngàn mảnh như thế, vun thành từng đống lớn. Tôi đoán chúng là quặng sắt đánh bóng, những mảnh vỡ tấm gương lõm khổng lồ của nhà Báo Sư Tử. Chắc nó đã bị đập nát trước khi chúng tôi lên đến đây để chúng tôi không chiếm được.

Tôi nhận ra chúng tôi đã đến đích.

Nó đây rồi, – tôi nghĩ. Đỉnh cao của thế giới đây rồi. Mẹ ơi.

Nếu tin vào những lời phóng đại mà đế chế này tuyên truyền thì chúng tôi đang đứng ngay trên trái tim, cái rốn, cái ổ bụng của vũ trụ. Rằng căn động chia bốn khoang dưới chân kim tự tháp chính là cái rốn, nơi những người khói từng ngồi họp bàn vào thời điểm kết thúc của mặt trời cuối cùng, khi Cậu Bé Ghẻ nhảy vào đống lửa và trở thành mặt trời vừa tắt lúc nãy.

Cuối cùng tôi cũng ngóc được đầu dậy. Tôi nhìn quanh.

Họ đặt tôi nằm sát rìa hàng hiên của đền thờ, cách bậc thang cao nhất chừng hai mươi sải tay về phía bắc để tôi ít bị phơi ra trước các mũi tấn công từ bên dưới. Họ cũng dùng khiên để che chắn cho tôi khỏi hơi nóng phả ra từ đám cháy. Mặc dù trời vẫn lặng gió nhưng chúng tôi đang ở độ cao đủ để hứng được một ít gió nhẹ. Biết đâu chúng ta sẽ sống sót, – tôi nghĩ. Chí ít là thêm một lúc nữa.

Tôi lết tới mép hàng hiên và nhìn xuống. Oa, chóng mặt. Thoát khỏi cái thế giới đông đúc gần như dưới lòng đất đó, lên tới độ cao này… tôi có cảm giác mà tôi đoán người ta sẽ gặp khi chuyển từ nhìn ba chiều sang bốn chiều. Bên dưới tôi, các quảng trường kín và sân nhà riêng hiện lên rõ mồn một như một bệnh nhân bị gây mê, tách mổ, mở phanh ra, nhuộm màu từng bộ phận, làm khô và đặt trên bàn. Bên tay trái là cầu thang khổng lồ dẫn xuống quảng trường Báo Sư Tử. Trên các bậc thang ngổn ngang đầu người. Đống lửa lễ hội cháy giữa một vòng tròn xác chết đen thui, nhưng bên ngoài vòng tròn đó, nơi tôi đoán rằng nhiệt độ giảm xuống còn khoảng 140 độ (Tương đương 60 độ C.), có ít nhất hai mươi ngàn người đang kẹt giữa đám cháy và các bức tường cao. Họ ở cách rất xa và cặp mắt váng vất của tôi phải mất một phút để tập trung. Và khi nhìn rõ, tôi nhận thấy họ đang nhảy trong hơi nóng, hay đúng hơn là nhảy cẫng lên vì nóng, giật đùng đùng trong một điệu disco cuống cuồng vì đau đớn.

Gusano, sâu cây thùa, là một món ăn ngon lành ở Mỹ La tinh, và một lần, khi mới lên ba hoặc bốn tuổi gì đấy – đó là một trong những ký ức xa xôi nhất mà tôi còn nhớ được – tôi đến nhà bà ngoại và thấy bà đang rang món gì đó. Tôi nhìn vào chảo. Nó đựng đầy một thứ nom như những đứa trẻ không mắt trắng nhợt nhạt đang quằn quại trong mỡ xèo xèo, nhưng cái chết quằn quại hàng loạt và tôi nghĩ tôi đã khóc thét lên, gào tướng lên hay gì đó và bác Generoso đã cười vào mũi tôi. Dĩ nhiên, về sau tôi đâm khoái lũ sâu bọ đó. Nhưng ngay lúc này, tôi lại thấy lại cảm giác lần đầu tiên nhìn thấy chúng, khi tôi cảm nhận được sự đau đớn của chúng qua thấu cảm bản năng và dường như mọi cảm giác khác giữa giây phút đó và bây giờ đều không là gì cả. Điều quan trọng nhất là những người này và khoảng một nghìn triệu triệu sinh vật khác đang hoặc sẽ bị tàn hại hàng loạt và do vậy, toàn bộ sự sáng tạo sẽ chỉ còn là một sai lầm.

Giết một hay hai người ban đầu có thể khiến ta có cảm giác kỳ quặc, nhưng giết vô số người sẽ là vô số cảm giác kỳ quặc theo một cách khác hẳn. Nhất là khi anh chứng kiến điều đó xảy ra. Mình không định làm thế này, – tôi nghĩ. Hay ít ra cũng là có lý do. Phải đấy. Những ý nghĩ ngu xuẩn cứ bám lấy đầu óc tôi: “mình không muốn họ phải chết, mình không muốn họ chết, mình không còn lựa chọn nào khác, không còn cách nào khác, không còn cách nào…”. Dừng lại đi, – tôi tự nhủ. Mày cố cảm thấy tội lỗi chỉ để tự nghĩ mình là người tốt thôi. Mày thì tốt đẹp gì. Mày là thằng tồi.

Song dù sao chúng tôi cũng đã làm được điều đó. Chúng tôi nói: “hãy chiếm lấy kim tự tháp” và chúng tôi chiếm được kim tự tháp. Chúng tôi xoay xở thế nào mà giỏi nhỉ?

Nhờ thuốc mỡ và trò liếm mắt cho nhau đã được tập dượt thành thạo, hầu hết chúng tôi đều nhìn rõ trong khi rất nhiều người khác không thấy gì. Tuy nhiên, sự bất ngờ cũng góp phần đáng kể. Chỉ một tí tẹo tổ chức, lên kế hoạch và sẵn sàng cho mọi việc có thể xảy ra đã đưa chúng tôi đi được khá xa.

Và hơn hết là đám lính Báo Sư Tử dưới quảng trường quá khiếp sợ kim tự tháp linh thiêng này đến mức không dám leo lên nơi chúng không được phép, ngay cả khi sắp chết cháy. Thực ra, nhân tố quyết định đơn giản nằm ở chỗ tôi không tin, và Koh… Ờ, thì bà ta vẫn còn hơi tin, nhưng không nhiều như trước khi gặp tôi. Sự mê tín có lẽ là thứ vũ khí mạnh số một trên đời, nhưng chắc chắn sự ngờ vực là thứ vũ khí mạnh thứ hai. Cortés không tin và điều đó hiển nhiên giúp ích cho ông ta. Nghĩ lại, khi ông ta bị cắt đường rút lui và bị vây hãm tại Tenochtitlan, ông ta và lính của mình đã làm hệt như chúng tôi đang làm đây. Họ leo lên đỉnh kim tự tháp Huitzilopochtli. Có lẽ thổ dân đã không đuổi theo họ lên đó…

A, bà ta đây rồi.

60

Koh đã lên hết bậc thang cuối cùng và bước vào hàng hiên của ngôi đền. Đám cận vệ hạ từng tấm vải che xuống và quay đi. Bà ta vẫn đeo tấm mặt nạ màu xanh lá cây nhưng hai cánh tay để trần, một trắng, một xanh đen tuyền. Người hầu đã đội lại cho bà ta chiếc mũ lông chim – tôi thấy kinh ngạc vì bà ta tìm được thì giờ để nghĩ ra kiểu tóc mới ngay giữa trận đánh, nhưng tôi đoán đàn bà ai cũng vậy – và ánh lửa của đám lửa cháy sau lưng bà ta rọi một vầng sáng lên những chiếc lông chim màu vàng pha xanh lục. Đám đông k’iik Đại Bàng, Thằn Lằn và Rắn Chuông đang đứng trên thềm liền rẽ ra. Bà ta bước vào giữa, không chút ngập ngừng, hệt như Joan de Arc đi qua cổng thành phía bắc Reims. Đám chức sắc của nhà Báo Sư Tử, những kẻ còn bám trụ trên đỉnh kim tự tháp, quay lại để nhìn. Bà ta bước chín bước. Bà ta đi theo lối đi của loài thằn lằn, thong thả, cảnh giác nhưng lại có vẻ dửng dưng. Hai chum lông chim đuôi seo dài lượt thượt ve vẩy trong không trung theo nhịp bước chậm chạp của bà ta không khác gì đôi râu của con côn trùng hít hửi đánh hơi phía sau. Chim Cánh Cụt, cô gái lùn của Koh – tiện đây xin kể luôn, người ta cho rằng cô ta có uay là một con mòng biển, do một trận sét mà không kịp khâu hết những đường cuối cùng của bộ da người nên phải hiện hình dưới thân xác thú vật – cô ta đã chạy đến đứng trước Koh, giơ những cái móng cong queo lên một lát, hạ xuống, nhìn sang trái, sang phải và lên tiếng:

– Bây giờ, các hướng đông nam, tây bắc đông bắc, đông nam, hãy lắng nghe, – cô ta nói đều đều bằng cái giọng khàn khàn rền rĩ của mình, – bên trên, bên dưới và ở giữa, hãy lắng nghe. Đằng trước, đằng sau và tất cả, hãy lắng nghe, lắng nghe.

Sự im ắng bao trùm đền thờ và bất chợt một âm thanh rất đặc trưng vang lên. Nó gần như bị át bởi tiếng huyên náo hốt hoảng bên dưới. Nhưng cáck’iik đứng quanh tôi vẫn nghe thấy nhờ đôi tai nhà nghề, tôi cũng nghe thấy và Koh cũng nghe thấy.

Một trong số những tay Báo Sư Tử đứng cuối hàng bên phải vẫn chưa buông atlatl, cây gậy phóng lao của hắn – chắc hắn vẫn giấu nó dưới áo choàng – hắn vừa đặt vào đó một mũi tiêu độc ngắn và chuẩn bị phóng nó về phía Koh. Cũng có thể hắn chỉ muốn buộc chúng tôi ném lao về phía hắn để đụng độ xảy ra. Đó là vấn đề muôn thủa của những kẻ này. Họ thà bị giết còn hơn bị bắt làm tù binh. Bất chấp là vì sao, với một động tác chuyển tư thế cực nhanh, các k’iik đứng quanh tôi nhắm phắt cây lao về phía hắn và chuẩn bị ném. Nhưng Koh nhún vai – tương tự cử chỉ giơ một ngón tay ra hiệu “khoan đã” của chúng ta – và họ dừng lại.

Gả k’iik của nhà Báo Sư Tử cũng dừng tay. Koh đứng yên một lát, không nhìn hắn, cũng không nói gì, tỏ ý thách thức hắn phóng mũi tiêu.

Tôi không rõ bà ta có thấy sợ hay không, nhưng bà ta biết nếu để lộ ra thì sẽ chấm hết. Dù sao bà ta cũng không nhúc nhích.

Năm nhịp trôi qua. Mười nhịp trôi qua. Gã k’iik của nhà Báo Sư Tử… hừ, hắn không hạ mũi tiêu xuống nhưng thả lỏng người, hay đúng hơn là chuyển tư thế theo cái cách mà anh có thể nói chắc rằng hắn sẽ không ném.

Koh cất tiếng. Giọng bà ta trầm, lạnh tanh và đầy cảnh báo. Tôi biết chắc đó là giọng bà ta, nhưng nó không giống bất cứ thứ giọng nào bà ta đã dùng. Bà ta dùng một thứ ngôn ngữ cổ của giới tăng lữ ở Teotihuacán và cứ ba từ thì tôi chỉ hiểu được một. Nhưng dĩ nhiên, sau này tôi cũng dịch được một bản hoàn chỉnh như sau:

– Các người, Báo Sư Tử, ngang hàng với chúng ta

Nhưng đã bị tước hết lao, hết chùy,

Đang run sợ trong nơi ẩn náu cuối cùng này

Các người đã bị bao vây, bị khuất phục,

Đã nằm trong tầm lao của chúng ta,

Đã sẵn sàng lưỡi dao để tự vẫn

Giờ đây, ahau của chúng ta,

Thần Lươn nuốt mặt trời của chúng ta

Rắn Chuông Sao với bộ lông ngọc bích của chúng ta

Phán truyền qua ahau-na Koh của Nhện Dệt Cầu Vàng

Koh của nửa trắng

Koh, với tư cách là Rắn Chuông Sao

Đến gặp ngươi, Báo Sư Tử

Chúa Tể Chiến Tranh.

Im lặng. Các Báo Sư Tử hơi rung động.

Một lão già bước lên phía trước, chậm chạp khó nhọc. Lão bước nửa bước một, nghĩa là chân trái không bao giờ bước lên trước chân phải, ra ý lão chưa phải tù nhân của Koh cho nên chẳng việc gì phải vội vàng. Lão đeo một chiếc mặt nạ màu cam che kín mặt, đội chiếc mũ lông chim to kềnh, dài thượt. Chắc là người đứng đầu giáo hội đây, – tôi đoán thầm.

– Ta, ngang hàng với ahau-na Koh, ta có thể vời ngài, hoặc không, – lão ta nói.

Koh không đáp. Cô gái Chim Cánh Cụt, người có vẻ hơi hiếu động thái quá, đứng chuyển hết chân nọ đến chân kia. Sau mười nhịp, lão đưa tay ra sau lưng ra hiệu và đám đông chức sắc nhà Báo Sư Tử rẽ đôi ra và lui khỏi các cánh cửa của đền thờ.

Bốn cánh cửa dẫn thẳng vào bốn gian điện thờ sâu hun hút, những hang động trên không được cho là phản chiếu y nguyên hình ảnh của hang đá nằm bên dưới, trong lòng đất. Từ chỗ đang nằm thu lu này, tôi không trông thấy gì nhiều, chỉ thấy gian điện ngoài cùng bên tay trái, tức phía bắc, được khảm, hoặc phủ vỏ trai. Gian bên phải được viền bằng ngọc bích màu xanh lá cây sáng và gian giữa được lát toàn quặng sắt đánh bóng. Các gian điện hình như đông kín người, nhưng một lát sau, tôi nhận ra đa số chỉ là xác ướp. Bốn tên đầy tớ khiêng vị thánh sống từ gian giữa đi ra. Cong Veo Ti Tiện ngồi khoanh chân, dựa lưng vào mấy tấm nệm da báo sư tử trong một ghế kiệu nhỏ có mái che. Ông ta đeo một chiếc mặt nạ lông chim màu cam, khắp người phủ kín lông chim màu cam đỏ. Bộ phận duy nhất hở ra là hai bàn tay xương xẩu tô màu đỏ son và một phần cẳng chân tong teo phía trên mắt cá phải. Nhìn ông ta… Ừm… nhìn ông ta như một vị thần đang hấp hối, càng đến gần cái chết thì càng tăng bội phần sức mạnh, và nom ông ta cũng chẳng có vẻ gì là một vị thần nhân từ. Giá họ cử tôi đối phó với ông ta thì chắc tôi đã rập đầu xuống đất mà lắp bắp “cầu xin người, hãy vì lòng khoan dung mà ban cho cái chết nhanh chóng”.

Họ dừng lại cách Koh chỉ mười sải tay. Họ không đặt ông ta xuống, mặc dù phải làm thế thì tầm mắt ông ta mới ngang hàng Koh, như thế mới phải phép. Koh cho qua sự xúc phạm này.

– Ngươi, ngang hàng với ta, ngươi có chấp nhận một sợi thừng vàng không? – Koh hỏi.

– Ta, bên cạnh ngươi, nói thay lời Bão Lốc, – ông ta đáp. Giọng ông ta nghe như tiếng một cỗ máy từ hầm mỏ vọng lên. – Người sẽ trở về từ chuyến đi săn, khi đó thì sao?

– Đến mặt trời đó, dòng giống của các người sẽ lại trở về, – Koh đáp, – đến mặt trời đó, hậu duệ của Rắn Chuông Sao sẽ trú ngụ ở một nơi rất xa.

Nói chung, ý của Công Veo Ti Tiện là Bão Lốc, vị thần già của bão tố, chỉ đi xa một thời gian ngắn và đó là lý do Rắn Chuông Sao thay mặt cai quản ngày hôm nay. Nói cách khác, ông ta đã bẻ ngoéo câu chuyện thành ra chính vị thần của ông ta đã sắp đặt tất cả chuyện này. Và ý của Koh là vào một ngày nào đó trong tương lai gần – sẽ được đàm phán ngay sau đây – bà ta sẽ thả Cong Veo Ti Tiện và các tù nhân còn lại, còn bà ta và người của bà ta sẽ lên đường tới một nơi khác.

Lại thêm những phút im lặng. Như mọi khi, phần người thế kỷ hai mốt trong tôi lại bắt đầu buông lời phỉ báng. Thật là một mớ những lời hoa mỹ nhăng nhít. Bao nhiêu kẻ đáng thương đang choảng nhau, gào thét và chết thiêu dưới kia, còn chúng tôi lại đổ thì giờ vào trò ngoại giao rườm rà này. Mặt khác, phần thổ dân hóa của tôi cũng nhận thức được rằng những người này không chỉ đang thực hiện các nghi thức ngu xuẩn của họ. Họ chính lànhững nghi thức ngu xuẩn ấy. Nếu chúng tôi không làm những việc đúng đắn kia thì đã chẳng có chuyện gì xảy ra.

Và tôi phải nói rằng Koh đang đâm đầu vào tình thế khó khăn. Chúng tôi vẫn đang yếu thế về quân số, giữa cả một đống người thực sự căm ghét mình. Nếu tập hợp với nhau, chúng sẽ đập chúng tôi tan tành. Đấy là nếu như ngọn lửa không giết chúng tôi trước.

Rốt cuộc, một cuộc bỏ phiếu lặng lẽ cũng diễn ra, các Báo Sư Tử vứt những lưỡi dao tự sát bằng đá vỏ chai xuống. Những con dao phát ra tiếng vỡ khe khẽ khi chúng đập xuống sàn lát vỏ trai, nghe như tiếng quả bóng trang trí rơi xuống từ cây thông nô-en. Có lẽ đây đơn giản là những kẻ tin vào định mệnh. Thậm chí có thể phần lớn người nhà Báo Sư Tử tin rằng tất cả chuyện này đã được định trước là sẽ xảy ra, rằng mọi điều mà các ông lớn bà lớn làm đều là hiển nhiên, và rằng họ đã có chủ nhân mới.

Hai k’iik phẩm cấp cao nhất của nhà Thằn Lằn buộc một sợi thừng quanh ngực Cong Veo Ti Tiện, có ý nghĩa tượng trưng rằng ông ta đã là con tin, có thể bị giết hoặc trao đổi. Họ khiêng ông ta đến chỗ rìa cầu thang và trưng ra cho người nhà Báo Sư Tử bên dưới nhìn thấy.

Hai người hầu cận của Koh kéo một cái loa vứt chỏng chơ đến rìa cầu thang, họ nâng Chim Cánh Cụt lên miệng loa. Qua loa,cái giọng ngân nga của cô ta thành ra ầm ầm và đáng sợ:

– Các ngươi, dưới chân chúng ta

Các ngươi, Bướm Đuôi Nhạn, Báo Sư Tử

Nằm trong tầm lao của chúng ta…

Cô ta ra lệnh cho các k’iik Báo Sư Tử đứng yên tại chỗ. Nếu họ tiến thêm, chỉ một bước thôi, chúng tôi sẽ giết các con tin và ném xương cốt của tổ tiên họ khỏi điện thờ.

Tiếng ẩu đả bên dưới lắng dần. Một vài k’iik Rắn Chuông thương tích tả tơi leo lên thềm điện thờ. Rõ ràng là lính nhà Báo Sư Tử đang chấp hành nghiêm túc mệnh lệnh. Quanh tôi xuất hiện thêm một đám đông thương binh, các k’iik Thằn Lằn và Rắn Chuông bị thương nặng đến mức không làm được việc gì nữa. Hun Xoe hối hả len vào và cúi xuống cạnh tôi.

Nó hỏi xem tôi có sao không. Tôi đáp rằng tôi không sao nhưng sắp xỉu rồi. nó nói dưới mũi tôi có máu và giúp tôi lau đi. Tôi hỏi nó chúng tôi còn mạnh đến mức nào. Nó đáp chúng tôi mất tám k’iik Đại Bàng, nhà Thằn Lằn mất bốn mươi mốt người và Koh mất sáu mươi. Tổng cộng, chúng tôi mất một phần ba quân số. Quỷ thần ơi. Nếu tính đến những trở ngại phía trước mà chúng tôi phải vượt qua, như thế là đủ để chiến dịch thất bại. Ngoài những thiệt hại về nhân mạng, dĩ nhiên, như người ta thường nói.

Chúng tôi hiện có hai trăm tám mươi sáu con tin, bao gồm Cong Veo Ti Tiện, hai người vợ của ông ta, sáu thành viên khác trong gia đình hoàng tộc, bốn mươi tám thành viên giáo hội Báo Sư Tử và năm mươi chín chức sắc của thị tộc Bướm Đuôi Nhạn nói chung. Như vậy cũng không đến nỗi tồi. Rắc rối chính là Cụt Tay Phải, người kế vị tương lai, không có trên kim tự tháp.

Ngoài ra, Mưa Bóng Mây 4 đang hấp hối, HunXoe nói. Khi chỉ còn cách đền thờ năm bậc thang, anh đã bị một mũi lao đâm trúng. Mũi lao đó đâm trượt tôi.

Với một chút giúp sức, tôi đứng lên và tập tễnh hai mươi bước về phía Đông nơi họ đặt Mưa Bóng Mây. Tôi ngồi xuống cạnh anh ta. Anh ta đã tái nhợt đi dưới lớp dầu xoa đỏ khiến người đâm ra có ánh hồng hồng lạ mắt, giống như miếng gan khô chưa nấu chín. Một mũi lao bằng đá lửa cắm sâu vào ruột non. Nếu lôi ra nó sẽ vỡ thành từng mảnh, – tôi nghĩ. Dịch dạ dày bốc mùi chua chua và một phần ba số phân đã chuyển hóa bắt đầu đùn ra. Ở đây, người ta không thể lãnh được những vết thương kinh khủng như thế. Trời ơi, – tôi nghĩ, – anh ta là một người tốt. Anh ta vẫn đang thở, khẽ thôi, tôi cúi đầu xuống, ghé vào tai và gọi tên anh ta, nhưng anh ta đã hôn mê vì mất máu.

Tôi định đứng lên như không đứng được.

Koh ngồi bên một bệ bàn thờ đá lật ngược trước cửa gian điện chính. Các chức sắc Báo Sư Tử, xếp hàng lần lượt đi qua, mỗi người đặt xuống một thứ gì đó giống đất trước mặt bà ta để thể hiện sự trung thành: một ống khuyên tai, một vòng khuyên môi, một vòng buộc tóc hoặc bất cứ thứ gì khác. Trước mỗi món quà, bà ta lại đập nhẹ tay phải lên vai trái, khẽ cảm ơn người tặng. Bà ta vẫn đeo mặt nạ, nhưng tôi chắc chắn rằng nó đang có cái vẻ bình thản đường bệ như thể bà ta luôn biết, từ trước khi ra đời, rằng sẽ có ngày này.

Hay rồi – tôi nghĩ bụng – mình vừa tạo ra một con quái vật. Một Elsa Lanchester (Elsa Lanchester: Nữ diễn viên người Mỹ, nổi tiếng với các vai kinh dị, trong đó có vai cô dâu của Frankenstein trong bộ phim cùng tên) đúng điệu. Cẩn thận với những cuộn biến thế đấy, em yêu.

Tôi chưa bao giờ là tín đồ cuồng nhiệt của trường phái lịch sử Vĩ nhân (Trường phái lịch sử Vĩ nhân: Trường phái triết học lý giải lịch sử dựa trên ảnh hưởng của các vĩ nhân, coi quyết sách của các nhân vật lãnh tụ với tài năng và quyền năng thiên bẩm là nhân tố quyết định đối với tiến trình lịch sử), nhưng giờ đây, khi được chứng kiến lịch sử một cách cận cảnh, tôi phải công nhận rằng phẩm chất lãnh tụ quả thật có giá trị. Đôi khi tất cả những gì anh cần làm là đứng lên nhận vị trí lãnh đạo. Và tôi chắc nhiều người đã làm theo cách đó.

Ừ, vậy thì cứ để bà ta tận hưởng thời khắc của mình, – tôi nghĩ, – cứ để bà ta tận hưởng chiến thắng. Ở đây người ta phát cuồng lên vì chiến thắng.

Đừng nghĩ ngợi nữa, Jed, – tôi tự nhủ, – chuyện này không hoàn toàn là lỗi của chúng ta.

61

Một đám tro tạt qua mặt tôi và trong một phút, chúng tôi không nhìn thấy gì; gió thổi đến và thành phố bốc cháy lại hiện ra mồn một. Chúng tôi không hề muốn cảnh này. Những tai này như vậy đôi khi vẫn xảy ra. Nó từng xảy ra… sẽ xảy ra chứ nhỉ… với Xhosa vào năm 1856, khi người ta đốt bỏ mùa màng và giết gia súc khiến bốn mươi ngàn người chết đói. Nó xảy ra với các tín đồ Ghost Dance (Ghost Dance: Một phong trào tôn giáo kết hợp nhiều hệ tín ngưỡng bản xứ châu Mỹ, bị quy kết là gây ra một vụ thảm sát dẫn đến cái chết của hàng trăm dân thường bản xứ) vào năm 1890. Nó xảy ra hàng năm tại lễ hội Rath Yatra (Lễ hội Rath Yatra: Một lễ hội lớn của người Hindu)ở thành phố Puri, bang Orissa, khi người ta đâm đầu vào bánh xe của cỗ xe rước thần Jagannah. Nó xảy ra ở Jonestown. Nó xảy ở Orlando. Nó xảy ra khắp nơi.

Nhưng dĩ nhiên, nó vẫn hoàn toàn là lỗi của chúng tôi. Lỗi của tôi. Todo por mi culpa. Lỗi của tôi. Lỗi của tôi.

Tôi nhìn về hướng tây. Dưới kia, trên bốn trăm quảng trường, những luồn hơi nóng cuốn khói và những cơn mưa tàn lửa thành từng cuộn dày, hệt như sợi chỉ vàng viền trên tấm màn sân khấu cũ, chỉ có điều chiều dài và độ rộng phải bằng đoàn tàu chở hàng. Chúng bò quanh, lần theo bậc thang của các kim tự tháp và bốc lên đỉnh. Một trong những con diều hình ống khổng lồ đó lơ lửng ngay bên dưới chúng tôi, bò chậm rãi như một búi cỏ lăn đang cháy. Tôi nhìn về hướng Nam. Xa xa, sau đống gạch vụn của kim tự tháp Rắn Chuông Sao, tôi nhìn thấy những cơn lốc lửa đang chạy ngược chiều kim đồng hồ quanh thành phố, như thể chúng tôi đang đứng giữa mắt bão trên mặt trời.

62

Tôi đi, hay đúng hơn là tập tễnh tới chỗ Koh. Bà ta đã tháo mặt nạ, giữ nó trên bàn tay đen, trong khi dùng bàn tay trắng vuốt ve Chim Cánh Cụt, mân mê da đầu dưới lớp tóc mỏng, vuốt dọc xuống má, rồi dọc khắp người, dùng móng tay gãi gãi như đang gãi cho một con mèo. Cô gái lùn rúc vào gần, vươn người ra và cuối cùng trườn khỏi tay Koh, lon ton quay lại với bảo mẫu của mình. Koh đứng lên, bước bốn bước tới mép bậc thềm. Bà ta nhìn xuống đám khói và thây người dưới các quảng trường. Bà ta ngước mắt lên, quay sang hướng bắc và bắt gặp ánh mắt tôi. Nhưng chúng tôi đã thỏa thuận rằng bà ta không được tỏ ra biết tôi trước mặt các Báo Sư Tử; bà ta nhìn sang hướng nam, về phía khu nhà Rắn Chuông. Nó đã cháy gần rụi, thả những cuộn khói đen lên bầu trời nâu xỉn. Tôi nghĩ tôi vừa thấy trong cặp mắt vô cảm của bà ta một ánh lạ lùng, dù chỉ nhìn nghiêng. Hai khóe miệng biểu lộ chút gì đó nghi ngờ. Những cơn gió xoáy cuốn theo tàn lửa nhìn như những chiếc lá vàng và giọt thép nóng chảy cuộn lên sau lưng Koh. Tấm mặt nạ ngọc bích lủng lẳng trên bàn tay đen, chiếu thẳng vào mặt tôi và tôi có cái cảm giác kỳ cục là bà ta có thể nhìn tôi bằng cặp mắt trống rỗng ấy. Nhưng khuôn mặt thật vẫn bất động. Ánh lửa từ dưới hắt lên soi tỏ đường cong của khuôn hàm. Cái đầu ở nguyên vị trí cũ, nhìn xuống các quảng trường của thần mặt trời như một tảng đá bazan khổng lồ hình đầu người trên sa mạc Ai Cập, được mài nhẵn qua hàng bao đời bão cát liên miên. Đâu đó bên dưới, ngọn lửa đã lan tới một bể chứa nước, một đám mây hơi nước xèo xèo bốc lên, hòa vào cơn lốc tàn lửa. Cặp mắt Koh dõi theo nó hướng dần lên rồi lại chậm rãi nhìn xuống hai nửa thành phố cháy rụi nằm hai bên trục đường vĩnh viễn không còn là cái trục của thế giới. Thoạt tiên, tôi nghĩ bà ta gợi tôi nhớ tới một bức họa vẽ nàng Helen đứng trên con thuyền của Menelaus, nhìn về hướng thành Troy đang bốc cháy, nhưng rồi tôi nghĩ lại, có lẽ tôi thấy Garbo trong cảnh quay cuối cùng của bộ phim Nữ hoàng Christina. Hay đó là hình ảnh Marena đứng trên con đường nổi giữa biển, mắt nhìn đăm đăm về phía bờ vịnh rực lửa? Hay một con nhện dệt cầu vàng nằm giữa quả cầu tơ của nó? Đột nhiên, tôi thấy thứ gì đó dưới cặp mắt đen sẫm của bà ta, tôi nhận ra đó là nước mắt, nhưng sau đó, tôi cho rằng có thể chỉ vì khói. Bà ta đưa mặt nạ lên, buộc nó quanh đầu bằng nút chết và quay đi.

PHẦN IV

HẬU DUỆ LOÀI NGƯỜI

63

– Ai lồng tiếng chuột Mickey? – Marena hỏi.

– Gượm hẫng, – tôi nói. Tôi muốn ho. Tôi ho.

– Jed? Anh cần uống thêm chút Squirt không?

– Không, cảm ơn, – tôi đáp, – anh không sao, à… Chính Walt Disney là người đầu tiên lồng tiếng chuột Mickey.

– Đúng. Căn bậc hai của nam bằng bao nhiêu?

Tôi đọc cho cô ta kết quả.

– Tên của người cuối cùng … khoan đã, – Marena dừng lại, – Ana đang gọi, cô ta muốn chúng ta dừng lại ở đây.

– Đến đây là đủ rồi, – giọng của bác sĩ Lisuarte cất lên ngay sau lưng tôi. Bà ta dừng lại một lát.

– Chờ đã. Không, tôi cần trao đổi với phòng thí nghiệm trước đã, – bà ta nói tiếp, hiển nhiên là với Ana qua bộ đàm. – Được rồi, thoát. CTP phải không? Akagi đây, chúng tôi nhận được “ba chín tám” từ Keelorenz.

Tôi phải mất một lúc mới nhớ ra CTP là phòng thí nghiệm Giao thức chuyển đổi ý thức, Akagi là bí danh của Lisuarte và Keelorenz là bí danh của Ana Vergara. Nhưng “ba chín tám” thì tôi chịu không biết gì.

– Được rồi, – Lisuarte nói. Dừng một lát. – Họ đã nhận đủ.

Tôi đoán câu cuối cùng là dành cho Marena và tôi, ý là phòng thí nghiệm đã quét đủ quy trình tư duy của tôi và có thể dừng chuyền tín hiệu được rồi.

– Nghĩa là tôi sắp được gỡ ra? – tôi lừ khừ hỏi.

Họ đáp “phải”. Lisuarte tắt “toa-lét”, tức là cái vòng chụp não to tướng màu trắng trên đầu tôi. Tôi nghe thấy tiếng các cục nam châm kêu rèn rẹt trên rãnh khi chúng chạy chậm dần lại. Ánh sáng trước buổi bình minh đã hé lên ngoài cửa. Marena gỡ các điện cực khỏi người tôi theo kiểu rất gợi tình. Thôi, thế là xong. Phiên bản của tôi, được hình thành sau cuộc hỏi đáp, đã lên đường rồi. Thực ra, nó đã đi, đã đến nơi, đã xong nhiệm vụ và chết từ lâu rồi.

Họ hối hả lôi tôi ra khỏi cân điện của ahau. Bầu trời đã chuyển sang màu xám sẫm và sao đã lặn. Michael và Hitch đang đứng đợi giữa nhịp cầu thang; học giúp Marena đỡ tôi xuống các bậc cầu thang đổ nát, mỗi bậc cách nhau đến hai mươi sáu inch. Tôi cảm tưởng như phải mất một tháng nữa mới xuống đến nơi.

– Tôi tự đi được mà, – tôi nói.

– Phải, nhưng chẳng vững mấy tí, – Marena đáp.

Có một bãi trống dưới chân kim tự tháp và một lối mòn dẫn xuống đồi, đi qua cung điện xuống bờ sông. Tôi đi xiêu vẹo, Ana và Grgur đợi sẵn trên bãi đất nơi tôi và Marina đã làm tí việc nhỏ cách đây mười bốn tiếng. Ana đang nói chuyện với không khí, một tay đặt lên tai.

– Có chuyện gì thế? – Marena hỏi Michael khi lão đã lấy lại hơi. Theo kế hoạch chúng tôi đã bàn, đây là nơi chiếc máy bay Hippo sẽ đón chúng tôi trong trường hợp phải rời đi khẩn cấp.

– Ana nghĩ chúng ta có thể rút đi ngay, – Michael nói. Không như Marena, Lisuarte và tôi, lão đã nghe tất cả các cuộc trao đổi qua điện đàm.

– Sao lại thế? – Marena hỏi.

– Có một đội tuần tra đang tới. Họ nghĩ chúng sẽ đi qua đây.

– Mẹ kiếp, – Marena nói, – nếu chúng không đi qua khu di tích,chúng ta sẽ quay lại đấy sau vậy.

Chúng tôi đứng chờ. Ana vẫn đang nói. Cô ta không giải thích với ai cái gì.

– Không Đời Nào đâu rồi? – tôi hỏi. Michael đáp lão không biết. Gã Commando hình như cũng không có mặt ở đây. Tôi tìm thấy tai nghe, đeo vào và bật lên.

– … mười sáu tiếng đập, – Ana nói. – Này, các vị đi đâu thế? – cô ta hỏi to lên.

– Tôi cần quay lại cung điện để lấy đồ, – Marena đáp.

– Không được, Asuka, – Ana nói, – không ai đi đâu hết.

– Sao chúng ta không trốn vào đâu đó trong rừng như các nhân viên khác của ES? – tôi hỏi, nhân lúc Ana ngừng nói qua bộ đàm.

– Vì nếu phát hiện ra các thiết bị của chúng ta, chúng sẽ để mắt theo dõi, – Ana đáp. – Chúng ta sẽ phải chạy từ đây đến tận Đường 14. Và ngay cả ở đó chúng ta vẫn có thể bị tóm. Chúng ta đã đề cập đến khả năng đó rồi mà.

– Chắc tôi đã bỏ lỡ buổi học đó, – tôi đáp.

– Dù sao, Hippo cũng là máy bay tàng hình với sóng ra-đa, nó sẽ đưa chúng ta đi mà không gặp rắc rối gì.

– Thế nếu chúng…

– Nếu chúng đi vòng qua khu di tích thì hai ngày nữa chúng ta sẽ quay lại và đào, – Ana cắt ngang, – đừng hỏi thêm câu gì nữa nhé.

Tôi ngậm miệng lại. Điều cô ta không nhắc đến là nếu đội tuần tra tìm thấy đồ đạc và máy móc của chúng tôi thì còn chán chúng tôi mới quay lại đây được. Mà Ix lại là nơi duy nhất Jed 2 sẽ tự chôn mình. Hay tôi nên nói là đã tự chôn mình. Nếu không đào các hầm mộ hoàng gia lên thì chúng tôi không thể biết anh ta có làm được điều đó hay không. Và cũng sẽ không có ký ức nào của Jed 2 được đưa lại vào não tôi. Tôi sẽ giữ lại cho riêng mình toàn bộ những gì tôi được chứng kiến ở quá khứ. Nếu các bạn hiểu ý tôi. Mẹ kiếp. Mặt khác, nếu chuyện đó xảy ra thật thì ký ức của ông ta cũng có thể đã xóa ký ức của tôi, ý tôi là ký ức mà tôi vừa tạo ra vài phút trước, hoặc từ một thời điểm nào đó trong lúc tải xuống, ký ức của chúng tôi được tách ra và…

– Nó đây rồi, – Ana nói, – hai phút nữa nhé.

Tôi gật đầu. Lo chuyện ấy sau vậy.

Một cái bóng lớn, sắc nét, rung rung trên đầu chúng tôi. Một tiếng bùm, sau đó là tiếng động cơ khởi động rền rĩ và tiếng nổ xình xịch; mặt nước phẳng lặng phía ngoài đám lá hoa súng gợn lên da cá mập. Cái bóng ấy cứ như hiện ra từ một nếp gấp trong không khí, một đốm trắng nằm giữa một cánh tay dài, thẳng, đu đưa chậm rãi như mũi kim trên la bàn. Ra đây chính là Hippogriff, – tôi nghĩ. Hẳn là nó có một hệ thống đánh lửa nhanh nào đấy để lượn mà không cần động cơ. Ana lội về phía nó với những động tác tuân thủ nghiêm chỉnh sổ tay dành cho lực lượng đặc nhiệm. Bọn lính tráng lúc nào cũng nghiêm túc quá thể. Cô ta đưa tay lên, tóm láy một khoang chở hai người bằng nhựa dẻo trong không trung. Ai đó đi ngang qua tôi, biến vào đám khói xăng. Marena nắm lấy tay tôi và chúng tôi cùng lội ra giữa xoáy nước nhỏ đang sôi réo. Ana đẩy chúng tôi vào cái chuồng năm góc. Cô ta vặn ngoéo cái cẳng chân dính đầy bùn của tôi khi tôi còn đang đứng khiến tôi gần như ngã quỳ xuống nền lưới. Dây rợ màu da cam giăng chằng chịt. Tôi ngước lên. Chiếc máy bay to đùng ngã ngửa, hình thù dị hợm đang lơ lửng cách đầu tôi năm mươi feet, đu đưa khe khẽ. Nó không muốn hạ thấp hơn vì cánh quạt có thể vướng vào cành cây. Các cánh quạt méo mó nhô ra từ các rãnh tỏa nhiệt dọc thân máy bay nom như khe mang của loài cá mập.

– Từ từ đã, Không Đời Nào đâu? – tôi hỏi.

– Đẩy một chuyến, kéo lên đi, – Ana nói. Chúng tôi được kéo giật về phía một khoang cửa lớn trên bụng máy bay. Tôi cố nhìn về phía cung điện để xem có Không Đời Nào hay ai đó ở đấy không, nhưng chúng tôi bị lắc lư nhiều quá. Tôi nắn các túi quần áo. Điện thoại của mình đâu rồi nhỉ? – tôi phân vân. Tốt nhất là họ đừng bỏ quên nó lại đó. Hai bàn tay đi găng màu da cam kéo cái khoang vào một rãnh tối. Có cái mùi nằng nặng của dầu máy, vinyl clorua và vải da cũ. Anh chàng đi găng tháo các cuộn dây, kéo tôi và Marena lên mặt sàn có đệm và thả cái khoang xuống. Tôi ngồi dạng chân dạng tay trên thảm và nhìn lên chủ nhân của đôi găng. Một gã cao lớn. Anh ta đội một cái mũ có camera nhưng lưỡi trai được đẩy lên và tôi nhận ra đó chính là viên phi công cứu hộ, hay chính xác hơn, theo các dấu hiệu trên trang phục, là WSO, tức sĩ quan chuyên trách hệ thống vũ khí – mặc dù máy bay của chúng tôi không hề có vũ trang – đã đi cùng chúng tôi trên chuyến bay từ Stake đến Pusilha. Phi đội này vỏn vẹn có hai người.

– Mời các vị về chỗ ngồi như chuyến bay trước, – anh ta nói cứ như chúng tôi đang ngồi trên máy bay của hãng hàng không Virgin Air không bằng. Nó hơi tối, nhưng mọi vật đều được chiếu sáng bằng đèn đi-ốt nên anh vẫn có thể phân biệt được thứ gì là thứ gì, nghĩa là nếu anh đã biết chúng là thứ gì. Tôi đứng lên, và trước khi Marena kịp tóm lấy tôi, tôi đã đập bốp đầu vào cái trần xốp bọc ni lông. Marena dẫn tôi tới chỗ khoang ghế bên tay trái. Nhìn nó hệt như chiếc ghế an toàn của trẻ con, có điều to đùng. Một thanh ngang màu xanh lơ xấu xí hạ xuống ngang tầm mắt tôi, trên viết dòng chữ in hoa màu da cam: KIểM TRA KHóA AN TOàN và có cả một bàn phím tiêu chuẩn. Marena ngồi đối diện tôi; hai chúng tôi đang ngồi sát nhất vị trí lẽ ra là vách ngăn giữa buồng lái và khoang hành khách. Tôi nhìn quanh. Các ô cửa sổ hành khách đã bị che kín, tôi đoán là vì chiếc máy bay đang thi hành nhiệm vụ quân sự, nhưng tôi nhìn thấy một phần tấm kính chắn phía trên đầu viên phi công trong khoang lái và một khe của khoang cửa sổ gầm mạn trái, bắt đầu từ ngay gần mắt cá chân tôi. Khi các cánh quạt xua tản bớt một phần sương mù, tôi có thể quan sát thấy một mảng tối đen của dòng sông. Michael và Lisuarte lồm cồm bò lên qua khoang cửa gầm và đi ngang qua chúng tôi. Michael được xếp chỗ gần đuôi máy bay để phân tán đều trọng lượng. Tiếp theo làn Hitch và Grgur. Hắn leo lên ít nặng nhọc hơn tôi tưởng nhiều và cúi xuống gần Marena một lúc, thì thào cái gì đó, trước khi đi xuống cúi ngồi đối diện với Michael. Anh cùng WSO ngồi vào chỗ của mình bên phải viên phi công. Ana lên cuối cùng, kéo theo cái khoang. Tôi đoán gã Commando ở lại dưới bụi rậm. Cô ta lật một chiếc ghế phụ ở giữa và lùi về phía sau so với ghế của hai phi công. Cô ta định thắt dây an toàn song lại thôi, đưa tay vòng ra sau như định ôm choàng lấy tôi. Nhưng hai bàn tay đã đưa lên quá đầu tôi.

Tôi cảm thấy áp lực hơi đè lên màng tai và chìm vào sự yên lặng; những tiếng đập khe khẽ như thể một con chim ruồi đang vỗ cánh quanh tôi, với một tiếng rít mảnh và những tiếng bíp lặp đi lặp lại hai giây một lần như thể tiếng châu chấu gọi bạn. Cô ta vừa kéo một chiếc mũ chụp xuống đầu tôi. Nó có lưỡi trai như bình thường nhưng có thêm một tấm kính trượt xuống, cho anh nhìn thấy thêm các hình ảnh video qua hai mắt kính của chiếc mũ. Khi chúng tôi sử dụng chiếc máy bay này lần đầu tiên ở Belize, họ đã khuyên chúng tôi nên “triển khai” cặp kính AVRV này mọi lúc, phòng khi có kẻ tấn công chúng tôi bằng tia laze gây lóa mắt. Ban đầu nó mờ mờ ảo ảo, nhưng một lúc sau, cặp kính điều chỉnh thích hợp với mắt tôi và tôi bắt đầu nhìn mọi vật dưới một góc độ khác. Hình ảnh sắc nét hơn đời thực, gần giống như nghe tiếng đàn vi-ô-lông qua tai nghe thay vì nghe trực tiếp âm thanh ngọt êm trên dây đàn. Thêm vào đó, mọi hình ảnh đều sáng và tương phản rõ hơn – tính năng này được áp dụng khi nhìn trong bóng tối – và vì hai ống kính camera trên mũ được đặt cách xa hơn khoảng cách giữa hai mắt nên nó làm phóng đại khoảng cách giữa mọi vật. hệt như trong phim hoạt hình 3-D kiểu cũ trong đó hình ảnh hoặc đập vào mắt người xem hoặc lùi tít đến hàng thứ Z. Và cuối cùng, chỉ để trải nghiệm thêm phần rối rắm, trên mọi thứ tôi nhìn thấy đều lởn vởn một hàng chữ, nhấn mạnh vào những vị trí quan trọng trên máy bay để chỉ ra các tính năng an toàn, các dấu hiệu chỉ dẫn, thậm chí chú thích cả phi đội và hành khách. Đương nhiên, nó cũng có một dòng chữ chạy dưới chân màn hình, trình bày những con số mà tôi không sao đoán được là cái gì. Có một bản đồ đường bay nho nhỏ nhưng khá rõ dưới góc phải. Nó cho biết chúng tôi sẽ bay theo hướng bắc – đông bắc đến Belize, ngang qua cửa sông Sarstoon, tức là con sông tạo thành đường biên giới phía nam. Hừ, xem ra dễ dàng đây, – tôi nghĩ. Sẽ không có trục trặc gì đâu.

Không Đời Nào vẫn ở ngoài kia ư? – tôi lại phân vân. Liệu cậu ta có gặp rắc rối gì không? Tôi đã kéo cậu ta vào cái trò chết dẫm này. Gần như bản năng, bàn tay trái của tôi đưa lên bàn phím trên thanh ngang và nhấn các phím cho đến khi thấy có tiếng động phát ra. Một âm thanh mới len vào thế giới bị bao bọc kín mít.

– Hê, khoan đã, chờ một giây nào, – tôi nói nhưng không nghe thấy giọng mình. Tôi tìm thấy phím MIC và bật lên.

Tôi chuyển sang kênh riêng của Marena.

– Marena? – tôi gọi.

– Chào anh, Jed. Anh ổn không? – cô ta trả lời.

– Có, – tôi uể oải đáp.

– Anh hiểu em nói gì không?

– Có. Anh ổn. Anh ổn. Anh ổn. Không Đời Nào vẫn đang ở khu di tích à?

Giọng Ana cắt ngang:

– Yêu cầu tất cả không đàm thoại, – cô ta ra lệnh. Đồ chết tiệt, – tôi nghĩ bụng. Marena tiếp tục nói.

– Jed, chúng ta không thể tin anh ta được. Có lẽ anh ta đã rời đi rồi.

– Không có chuyện ấy đâu, – tôi đáp, nhưng chỉ vừa nói hết từ “không” thì Ana đã tắt phụt mic của tôi. Tôi cởi mũ ra, được nếm ngay sự tối tăm và tiếng ồn bên ngoài, liền nghĩ có nó thì tốt hơn và đội lại. Tôi chăm chú nhìn vào dòng chữ DANH SÁCH ĐÀM THOẠI nằm góc trên bên trái màn hình, đưa con trỏ vào kênh đàm thoại của viên phi công và bật lên.

– … các ngọn cây, – một giọng nói cất lên.

– Xong, chúng tôi lên hết rồi, đi thôi, – tiếng Ana nói. Tôi cảm thấy mình đang rơi xuống, bị hút qua một vết nứt trên ghế và chìm xuống lòng đất khi chiếc Hippo bắt đầu cất cánh theo kiểu hết sức khó chịu với phần đuôi chổng lên như đuôi con cá voi. Áp lực không khí đột ngột tăng khi các cánh cửa sập lại. Bên ngoài cửa sổ gầm, các tán cây lùi dần và biến mất khi chúng tôi bay vào một đám mây mưa thấp. Các hạt nước bậu kín tấm kính. Tiếng Marena lại vang lên.

– Jed, nếu anh có cần gì, hãy dùng kênh 4, – cô ta nói.

Tôi tìm thấy và bật lên.

– Không Đời Nào không tự dưng bỏ đi đâu, – tôi nói.

– Jed, có lẽ anh ta bị đội tuần tra cản đường về, – Marena nói.

– Anh không nghĩ thế, – tôi nói.

– Dù sao thì anh ta cũng chưa bao giờ thực sự tin tưởng chúng ta. Thôi nào…

– Ý anh là…

– Chúng ta sẽ gọi cho anh ta khi quay lại, – Marena nói, – bây giờ không phải lúc tranh cãi chuyện này.

Chúng tôi bay vào một luồng không khí bớt dày đặc hơn và lượn vòng. Cơn buồn nôn lại trào lên cuống họng tôi. Bên ngoài cửa kính khoang lái, sương mù rẽ ra và không gian như bị bẻ cong đi như thể chúng tôi đang ở trong mắt một con cá. Đám mây đen thứ hai trải rộng bên trên và phía trước. Tôi rụt chân lại khi thấy một ngọn cây cọ suýt chạm vào cửa kính. Chúng tôi đang bay thấp hơn tôi tưởng. Tôi nhìn sang Marena nhưng cô ta không nói gì, chỉ tỏ vẻ sợ hãi nên tối ấn vào DANH SÁCH – QUAN SÁT, vào mục TỔ LÁI – HTDKVK – QSLT – nghĩa là hệ thống điều khiển vũ khí và quan sát liên thông – rồi ấn chữ WSO. Hệt như tôi vừa đổi đầu cho người khác; tôi đang ngồi trên ghế trước, nhìn thấy chính xác những gì WSO đang nhìn thấy. Tôi đoán ý tưởng của thiết bị này là cho phép người đội bất cứ chiếc mũ nào cũng có thể tiếp cận với hình ảnh mà người đội một chiếc mũ khác đang nhìn thấy; như vậy, cả đoàn đều có thể nhìn bằng cặp mắt của viên phi công và biết tình hình bay ngay lập tức. Hoặc viên phi công cũng có thể nhìn thấy những gì người ngồi cuối nhìn thấy, hoặc gì gì đó. Cả một lô thông tin hiện lên, nào vec-tơ, nào vận tốc, nào áp suất, nào nhiệt độ, các ô cửa sổ hiển thị TỐC ĐỘ BAY 248KM/H, ở ĐỘ CAO 381M SO VỚI MỨC NƯỚC BIỂN, 28,2M SO VỚI MẶT ĐẤT, và các dòng chữ chạy liên tục nắc đi nhắc lại những dòng cảnh báo như TRUYỀN PHÁT NỘI BỘ, ĐÂY KHÔNG PHẢI THÔNG TIN HIỂN THỊ RỘNG RÃI, thậm chí cả những dòng nhắc nhở không nên xem nếu bị chứng động kinh. Tầm mắt hướng lên trên, tôi thử cúi đầu xuống nhưng dĩ nhiên chẳng thay đổi được gì. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào cặp mắt của anh chàng kia và anh ta đang tập trung nhìn về phía chân trời ảo (Chân trời ảo: Đường tương tự như đường chân trời thật nhưng nằm lệch lên trên hoặc xuống dưới) vẽ thành một vệt màu xanh da trời trên nền mây. Tôi tìm được kênh đàm thoại của WSO.

– … no te preocupes amorcita, este es el caballo (Đừng lo em yêu, con ngựa ấy đây), – anh ta đang nói. Đó là điểm nút của một câu chuyện khôi hài nào đấy.

– Sí, pues.. .(Ừ, thế thì…), – một giọng đặc Guatemala đáp. Xem ra anh chàng WSO đang tán phép qua điện đàm với người kiểm soát không lưu địa phương như bạn bè lâu năm. Biết đâu chuyện này rốt cuộc sẽ ổn thỏa. Chắc họ phải dàn xếp trước với người Guatemala. Nhưng vậy thì những kẻ suýt đụng phải chúng tôi ở khu di tích là ai? Chỉ là một đội tuần tra nào đó không tham gia vụ dàn xếp ư? Chắc họ không muốn đưa quá nhiều người vào danh sách nhận tiền.

Chúng tôi bay gần như thẳng hướng đông, qua những triền dốc cao phía trên thác nước và rẽ sang hướng đông nam ở đúng quãng dòng Chisay đổ vào sông Río Cahabón. Một vách đá vôi xám xịt hiện ra trước mắt chúng tôi và thay vì vượt qua, viên phi công lại bay vòng dưới thấp và tiếp tục bay là là giữa dòng sông khiến tôi có cảm giác như đang trượt tuyết chứ không phải đang bay. Các tán cây như bao phủ lấy chúng tôi, nhưng rồi chúng tôi vượt qua và bay vào khoảng không trải rộng.

Một giọng nói khác xuất hiện trên kênh đàm thoại chính:

– Es este el vuelo 465-BA del poptún? (nghĩa là “Các anh có phải chiếc 465-BA khởi hành từ Poptún?”)

Chỉ dẫn nhận dạng cho biết đó là giọng của một người gọi từ căn cứ Gúzman của sân bay quân sự Guate City.

– Correcto (Phải), – anh chàng WSO đáp.

– Perdone la molestia, mas el OC dice quépasa? (Xin lỗi đã làm phiền, nhưng chỉ huy hỏi có chuyện gì xảy ra vậy?)

– Có vụ việc gì đó bất ổn ở nam Chisec, – anh chàng WSO trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha, – hạ sĩ Olaquiaga ở căn cứ Portún ra lệnh cho chúng tôi ứng phó.

– Tốt thôi. Tuy nhiên hình như hôm nay các anh đến muộn rồi.

– Nói thật, đó là lý do vì sao chúng tôi đang quay lại.

Á à, – tôi nghĩ. Té ra anh ta đang giả vờ chúng tôi là máy bay quân sự của Guatemala, cố lừa các kiểm soát viên không lưu càng lâu càng tốt. Điều đó có nghĩa là chúng tôi không hề có tay trong trong quân đội Guatemala.

Chiếc Hippo leo lên độ cao một ngàn feet khi bay qua đầu nguồn sông Oxec, nằm giữa dãy Cerro Tabol bên tay trái và sườn tây của dãy Sierra de Santa Cruz đồ sộ bên tay phải.

– … đọc số hiệu chúng tôi cấp đi, – giọng gã Guatemala nói.

– GAC 465 BA, 20380-821809-234874211, – anh chàng WSO đáp.

– Chúng tôi phải kiểm tra lại, bằng không họ sẽ gây khó khăn cho anh khi bay qua biên giới.

– Tôi sẽ gọi cho họ.

– Sao các anh không dừng lại một giây? Bay chậm lại!

Tôi chuyển sang kênh 4, kênh đàm thoại của Marena và gọi. Cô ta trả lời. Tôi bảo cô ta rằng hình như phía Guatemala đã bắt đầu ngờ vực.

– Đó chưa chắc đã là vấn đề đâu, – cô ta đáp, – họ canh chừng các chuyến bay đến chứ không phải các chuyến bay đi.

– … nhưng sao lại là hướng này? – một giọng Guatemala khác hỏi.

– Có khả năng một vài tên khủng bố đã rời đi bằng xe tải sáng nay, – anh chàng WSO bịa đặt, – ông ta muốn chúng tôi thử xem có thể phát hiện được chúng ở biên giới hay không.

– Thôi, được rồi, nhưng chúng tôi phải thu thập thông tin về mọi chuyến bay gần DMZ, – viên sĩ quan kiểm soát không lưu nói.

– Anh nên gọi cho Olaquiaga, – anh chàng WSO nói và bắt đầu đọc cả một loạt số điện thoại.

– Ông ta không ở căn cứ đó, anh phải gọi cho sĩ quan chỉ huy ở đó.

– Anh chuyển máy cho tôi được không? – anh chàng WSO đề nghị.

– Anh phải gọi bằng tần sóng của các anh.

– Tôi sẽ làm.

Anh ta tắt radio. Viên phi công – người tôi đoán là không bao giờ lên tiếng nếu không cần thiết – xuất hiện trên kênhKếT NốI TOàN Bộ. Tức là anh ta đang nói với toàn bộ hành khách trên chiếc Hippo.

– Xin thông báo, – anh ta nói, – chúng ta chuẩn bị tăng tốc.

Nhưng anh ta chưa kịp nói xong thì đầu tôi đã bị ấn dính vào cánh phải của chiếc ghế và chỗ da chùng trên hai má bị kéo ra sau thêm bốn hoặc năm đơn vị lực G. Anh ta vừa tắt cánh quạt và khởi động động cơ phản lực.

Thế là hết cả lén lút, – tôi nghĩ.

– Chờ một giây đã nào, – tiếng của viên sĩ quan kiểm soát không lưu Guatemala.

Giọng Ana hỏi:

– Anh nghĩ sao?

– Họ không biết mình đang làm gì đâu, – viên phi công đáp, – ta cứ duy trì tốc độ này.

Bàn tay phải của anh ta xoay nhẹ cần điều khiển nằm giữa hai chân.

Đám người Guatemala lại gào lên:

– 465 BA, căn cứ Gúzman CG đây, các anh đang làm gì thế?

Chúng tôi không trả lời.

– Xin lỗi, – viên sĩ quan kiểm soát không lưu nói, – các anh phải xin chỉ thị mới hoặc quay đầu và hạ cánh ở đây.

– No me quiebres el culo (Đừng làm tôi cuống lên), – anh chàng WSO nói, – không phải anh bảo tôi quay lại đấy chứ?

– Xin lỗi.

– Olaquiagase va a cagar (Olaquiaga sẽ ỉa đùn ra mất).

– Yo no te puedo asegurar que llegues salvo (tôi không thể đảm bảo an toàn cho các anh đâu), – giọng nói kia trả lời, – Te van a chingar por el culo. Agarra la onda (Họ sẽ cho các anh toi đấy. Thôi, chấp nhận đi).

Anh chàng WSO im lặng một lúc.

– Bueno, reconocido, Guzman (Tốt thôi,đồng ý, Guzman).

– Bueno (Tốt), – giọng nói kia trả lời và ngừng liên lạc.

Nhưng chúng tôi vẫn bay tiếp. Trên bản đồ đường bay, hành trình của chúng tôi đổi hướng. Chúng tôi bay xuống phía nam về phía hồ Izabal rồi bay ra Mar de Ias Antillas, tức biển Carribe. Tôi đoán ý định của viên phi công là làm cho họ tưởng chúng tôi đang quay về rồi sẽ tiếp tục hành trình, bay là là trên mặt nước, nơi không có các thiết bị phát hiện máy bay lớn.

Viên sĩ quan kiểm soát không lưu Guatemala lại xuất hiện trên radio.

– 465 Barcelona Antonio, atterrize en seco (465 Barcelona Antonio, quay vào đất liền và hạ cánh), – anh ta nói.

– Somos responsables del seguridad Corporal Olaquiaga (Chúng tôi phải chịu trách nhiệm về sự an toàn của hạ sĩ Olaquiaga), – anh chàng WSO lại bịa.

– No contestes. Pararse en seco desde ahora (Không lý do. Vào đất liền hạ cánh ngay).

Anh chàng WSO tắt liên lạc và thông báo với chúng tôi:

– Họ không cắn câu rồi.

– 465 BA, toma tierra a Poptún (465 BA, hạ cánh xuống Poptún ngay), – viên sĩ quan Guatemala nói rít răng, – Esto es el último apelar (Đây là lời yêu cầu cuối cùng).

– No puedo (Tôi không thể), – anh chàng WSO đáp, – xin gọi giúp sĩ quan chỉ huy của anh. – Anh ta tắt liên lạc và quay lại kênh đàm thoại với chúng tôi: – Tệ thật, – anh ta lẩm bẩm, – ta phải tuân lệnh thôi.

Viên phi công giảm tốc độ, bay song song với mặt đất và quay đầu vào đất liền.

– Các anh làm gì thế? – đó là giọng của Marena.

– À, nói ngắn gọn là họ vừa chặn đường chúng ta, – anh chàng WSO đáp.

– Chúng ta phải quyết định, – Ana nói, – hoặc để họ ép chúng ta hạ cánh, hoặc chuyển sang kế hoạch B.

– Được, – Marena đáp.

– Được gì? – Ana hỏi. Dừng một lát. – Đến lượt cô quyết định đấy. – Cô ta nói rành rọt hơn bình thường để đảm bảo máy ghi âm thu không sót từ nào.

– Kế hoạch B, bỏ chạy, – Marena nói.

– Rõ, – Ana trả lời. Thêm một phút im lặng. – Ô-kê, chúng ta sẽ chọn kế hoạch này, phải không? Có ai phản đối không?

Chuyện này sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát mất, – tôi nghĩ, – có lẽ mình nên phản đối.

Không ai có ý kiến gì.

– Tốt, vậy thì từ lúc này trở đi, tôi là sĩ quan chỉ huy duy nhất, – Ana nói, – không ai được nghe lệnh từ Marena hay bất cứ người nào khác.

– Hoo – hah, – viên phi công đáp.

– Hwah, – anh chàng WSO đáp.

Họ nói gì vậy? – tôi thắc mắc – À. Ra là HUA (HUA, viết tắt của cụm từ tiếng Anh: “heard, underwood, and acknowledged” nghĩa là “nghe rõ, hiểu, đồng ý), nghĩa là nghe rõ, hiểu, đồng ý.

– Khoan, chờ chút đã, – anh chàng WSO nói. Anh ta bật một kênh đàm thoại khác, – Zepp gọi căn cứ NERV.

– Xin chào, Zepp, – giọng của một người da trắng đáp. Đó là tay chỉ huy bộ phận kiểm soát không lưu ở Stake., – căn cứ NERV đây, nói tiếp đi.

– Chúng tôi chuyển sang kế hoạch B, – viên phi công nói, – yêu cầu MD4.

– Nghe rõ, xin chờ một giây, – căn cứ NERV trả lời, – xem ra các anh gặp rắc rối hả?

– Quỷ tha ma bắt cái kế hoạch A.

Chúng tôi tiếp tục giảm tốc độ cho đến khi chỉ còn bay lờ vờ. Qua chiếc camera đặt ở mũi máy bay, tôi nhìn xuống một khoảng rừng đang cháy. Tôi đánh chữ “MD4?” lên bàn phím. Hình ảnh một tên lửa không người lái mang đầu đạn hạt nhân tầm thấp hiện lên. Nó thon mảnh, chỉ dài chừng sáu feetvới hai cánh mũi dài. Màn hình cho biết nó có tốc độ cao, được trang bị đầu đạn không đối không. Cha mẹ ơi. Ra là yêu cầu gửi tên lửa đến. Ối giời ơi. Toi rồi. Chúng ta sẽ bị bắn hạ ngay thôi. Thôi, ít như vậy cũng không đau đớn…

– Được rồi, Zepp, – tiếng anh chàng ở căn cứ NERV, – chúng tôi đã thấy tín hiệu của anh, bốn MD4 đã sẵn sàng phóng.

– Cảm ơn, NERV.

– Bảo bên kia là chúng tôi đang hạ cánh, – Ana nói.

– Được rồi, Guzmán. Chúng tôi đồng ý và đang quay về Puerto Barrios, – ành chàng WSO nói phét. Đường bay trên bản đồ của tôi quay một vòng khi máy bay của chúng tôi quay ngoắt lại.

– No Puerto (Không phải Puerto), – viên sĩ quan kiểm soát không lưu Guatemala đáp, – Pop… – tắt phụt.

– Zepp, – giọng từ căn cứ NERV, – MD4 đã phóng và đang bay tới chỗ anh.

– Cảm ơn, NERV, – anh chàng WSO đáp, – các anh có cài đặt thời gian đến đích không?

– Chúng tôi đã bay đến chỗ anh trong hai phút bốn mươi nhăm giây nữa. Các anh chỉ cần xoay sang hướng nam thêm bốn mươi độ nữa, như vậy chúng sẽ không phải quay đầu.

– HUA.

– Cẩn thận nhé, nghe rõ không?

– Rõ, cảm ơn NERV.

– Chuẩn bị xoay bốn mươi độ, – viên phi công nói. Anh ta nghiêng sang trái và nhấc chân khỏi bàn điều khiển động cơ đuôi, đưa chúng rẽ một vòng chóng mặt. Chúng tôi xé gió quay sang hướng nam, bay dọc một dòng nước hẹp giữa các hẻm núi và ra đến sông Moxela.

– Máy bay đánh chặn kia, – anh chàng WSO thông báo.

64

Tôi nhìn quanh nhưng không thấy chiếc máy bay nào. Tôi đoán ý anh ta là nó xuất hiện trên bản đồ. Tôi bật lên và phóng lớn màn hình. Nó bắt đầu chuyển sang tính năng của một giao diện. Phía trước chúng tôi, đườg biên giới Belize chi chít các trạm phòng không như một chuỗi đèn màu giáng sinh. Oa, đây rồi. Hai chấm đỏ đang lượn về phía chúng tôi theo một góc 310 độ. Tôi đặt con trỏ lên hai cái chấm và đánh chữ “IFF”, nhận diện quân ta hay quân địch. Một cửa sổ hiện lên, rà soát tí hiệu ra-đa của nhiều chiếc máy bay khác nhau cho đến khi tìm được thông tin khớp. Dòng chữ “COMANCHE H-18 (?) AIRBORNE A+?” hiện lên. Tôi đoán chữ “A+?” có nghĩa là chúng được trang bị vũ khí nhưng không chắc là vũ khí gì. Tôi tìm thấy mục KHả NăNG ĐáNH CHặN trên danh mục và thấy nó vẽ ra hai đường tròn thể hiện tầm đạn, đường màu xanh lá cây bao quanh chúng tôi và đường màu đỏ bao quanh hai chiếc máy bay kia. Chúng gần nhau đến mức khó lòng mà an tâm được.

– Chúng không muốn bắn hạ chúng ta đâu, – anh chàng WSO nói, – chúng muốn tóm được một chiếc Hippo. Chúng sẽ cố ép chúng ta hạ cánh.

– Đừng quá chắc mẩm chuyện đó. – Ana nói.

Mẹ kiếp. Sao mình có thể lâm vào cảnh này được nhỉ? – tôi nghĩ bụng. Mới một tiếng trước, chúng tôi vẫn còn yên lành và ấm cúng trong căn điện của nhau, thong thả làm mọi việc và bây giờ chúng tôi có cơ toi mạng trong tay không lực Guatemala. Sao Ana không để họ bắt chúng tôi cho xong nhỉ? Warren có thể dùng tiền cứu chúng tôi ra chỉ trong một tuần. Không, chỉ hai ngày thôi. Thời gian biểu có gì mà quan trọng đến thế. Ý tôi là nó cũng quan trọng, nhưng… mẹ kiếp. Đơn giản là tôi không chịu hiểu rằng những gã này luôn sẵn sàng đưa mọi chuyện đi xa hơn nữa. Quân ôn vật. Thằng ngu. Mày biết mà, Jed, mày muốn tự dối mình rằng mày đang làm việc với bọn con buôn, nhưng thực ra mày đang dính líu với lũ côn đồ. Và thành thật mà nói, mày vẫn luôn biết điều đó. Vì thế, đừng…

Chúng tôi bay lên cao, hướng về trung tâm dãy Sierra de Santa Cruz với tốc độ hai ngàn feet một phút và lao vụt qua một vách núi xanh với hẻm núi đá phấn trắng hẹp. Vòng tròn đang dịch chuyển về hướng nam thu hẹp lại và chúng tôi đang bám theo nó với tốc độ 340 dặm một giờ, bay sát sàn sạt các vách núi. Trên bản đồ, hai vòng tròng thể hiện tầm bắn mỗi lúc một tiến lại gần nhau và chuẩn bị tiếp xúc.

Ôi thôi, thế là hết cả hầm lẫn mộ, – tôi rên lên trong bụng. Còn lâu chúng tôi mới có thể quay lại phế tích Ix một lần nữa. Hoặc có thể chẳng bao giờ. Việc duy nhất chúng tôi có thể làm là tìm hình chữ thập đá nam châm – đấy là nếu như chúng tôi về được Stake, một điều xem ra càng lúc càng ít chắc chắn, ý tôi muốn nói đến – tôi nghĩ tôi đã nói rồi – hình chữ thập mà Jed 2 phải chôn bản sao của các mẩu ghi chép về cờ Hiến tế. Và đến lúc này, chúng tôi lại hy vọng nó nằm cách Ix đủ xa để chúng tôi có thể lén quay lại vào đào lên mà không bị lính Guatemala quấy rầy. Và đấy là nếu Jed 2 làm được điều đó. Bao nhiêu cái “nếu” rồi không biết? – tôi tự hỏi. Cả đống…

Một loạt chấm sáng khác xuất hiện trên bản đồ, đến từ hướng bắc.

– Tốt rồi, đó là MD4 của chúng ta, – anh chàng WSO nói.

Chúng tôi bay chậm lại. Các đốm sáng tăng tốc va bay sát vào dưới chúng tôi như những con cá thuyền. Tôi đoán họ làm vậy để giấu chúng trong phạm vi tín hiệu ra-đa của chúng tôi.

– Được rồi, NERV, chúng tôi đây rồi. – anh chàng WSO thông báo.

– Nghe rõ, Zepp, chúng tôi đang tháo dây. Nhận lấy nhé.

– Cảm ơn. Nhận được rồi. À này, Keelorenz muốn biết chắc là các anh đã sắp xếp ổn thỏa “đàn vịt”, – ý anh ta muốn nói đến những chiếc thuyền đón chúng tôi.

– Đàn vịt ổn rồi.

– Tốt.

Tôi chỉnh thanh cuộn trên bản đồ đường bay cho đến khi nhìn thấy dây thuyền. Chúng tôi có bốn chiếc ở hai nơi để lựa chọn, hoặc ở Mar de las Antillas, hoặc ở vịnh Mexico. Liệu có phải nhảy dù không đây? – tôi tự hỏi. Không rõ vì sao nhưng tôi rùng mình. Không, không có chuyện ấy đâu. Họ sẽ hạ thấp máy bay cho chúng tôi xuống. Rồi sau đó tôi lại nghĩ hai anh chàng này có thể sẽ hạ cánh xuống quần đảo Keys, trả lời thẩm vấn, ở tù một khoảng thời gian và được đền bù thảo đáng.

– Tôi thấy chúng rồi, tôi thấy chúng rồi, – anh chàng WSO nói. Tôi đẩy thanh cuộn lên chỗ hai chấm sáng của quân địch. Trên màn hình ghi “(2) US-B/CAH#220?”. Như thế có nghĩa là đây là hai máy bay trực thăng Comanche của Guatemala. Chúng chở theo rốc-két.

– Chúng ta nên sẵn sáng đón một phát đạn, – viên phi công nói. Anh ta đã đổi hướng bay bốn mươi độ về hướng tây bắc, về phía Punta de Manabique.

– Tốt hơn hết là nhanh chân lên, – anh chàng WSO nói, – nhanh lên, nghiêm túc đấy.

Chúng tôi bay vào một đám mây dày đặc, trong một giây, tôi có cảm tưởng như chúng tôi đang lún trong mớ bông, và rồi chiếc máy bay lao khỏi đám mây ra khoảng thời xanh.

– …no me friegues (đừng phí thì giờ nữa) – một chiếc Comanche kêu gọi, – hạ cánh và đầu hàng đi.

– Bảo chúng cứ thử đi, – Ana nói.

Chắc ở đây họ không làm theo luật nữa, – tôi nghĩ. Thường thì anh không được trao đổi với phe bên kia. Có lẽ ES đã bỏ qua luật đó kể từ khi họ chuyển sang lĩnh vực bảo vệ tư nhân.

– Nghe này, hai Comanche, hãy tránh đường cho chúng tôi, – anh chàng WSO nói.

– Vớ vẩn, – một trong hai chiếc Comanche đáp.

– No les hables (đừng nói chuyện với chúng), – một viên sĩ quan kiểm soát không lưu Guatemala cắt ngang.

– Quay lại đi, – anh chàng WSO nói, – các anh đang đâm đầu vào việc mà mình chưa sẵn sàng đấy.

– Các anh nên đầu hàng đi!

– Chúng tôi có vũ khí hạng nặng, các anh sẽ bị bắn hạ đấy.

– Mẹ chúng mày, – viên phi công Guatemala rủa.

– Chúng tôi không muốn bắn hạ các anh. Đi đi. Cơ hội cuối cùng đấy, – anh chàng WSO nói xong, tắt liên lạc và quay về kênh đàm thoại với chúng tôi. – Được rồi, toàn đội, nghe cho kỹ này. Đề phòng trường hợp chúng ta…

Tiếng còi báo động mục tiêu tới gần rít lên.

Ôi, mẹ kiếp, – tôi nghĩ.

– Ôi, mẹ kiếp, – viên phi công thốt lên.

– Lạy đức mẹ Maria. Phải bắn thôi!!! – anh chàng WSO nói, – Khốn nạn thật! Đường lo, chúng ta phải trù liệu những việc như thế này khá thường xuyên…

– Thử mức năm mươi nhăm, – tiếng người ở căn cứ NERV, – bốn và sáu phẩy bốn mươi hai.

Một luồng sáng hồng rực chiếu vào cabin khi tia laze nhắm mục tiêu của phía Guatemala quét qua chúng tôi. Tôi nuốt vào một bãi nôn chực phun ra. Toi cả lũ rồi, – tôi lầm bầm không thành tiếng với cái lưỡi trai trên mũ, – không thể tin được mình lại bị lôi kéo vào chuyện này, không thể tin được, không thể tin được, không thể tin được. Tôi nện xuống đùi mình.

– Nghe rõ, – viên phi công đáp, – chúng tôi sẽ chỉnh sang chín mươi nhăm ở tầm thấp.

– Bán kính thấp nên là một trên tám mươi.

– Cứ lấy một trên bảy mươi đi.

Một chấm đỏ xuất hiện trên màn hình của tôi và hình như không di chuyển, không có vẻ gì giống một vật đang lao về phía chúng tôi. Chào mày!!!

– Xong rồi. Nào, đếm từ mười nhé.

– Được, chú ý nào.

Viên phi công mở đồng thời vài vị trí trên vỏ động cơ và cánh quạt nghiêng khiến chiếc máy bay gần như quay ngoắt một trăm tám mươi độ. Đầu tôi như muốn văng khỏi xương sống. Bất thình lình, các tua-bin quay chậm lại và tốc độ cánh quạt cũng thay đổi khiến chúng tôi gần như đứng yên trong không trung và không khí bên trong máy bay yên ắng một cách lỳ quặc. Tôi thấy bẵng một cái khi chúng tôi lao xuống. Không sao đâu, – tôi thầm gào lên với mình, – không sao đâu mà, vẫn còn cả đống không khí bay xuống dưới tầng mây thấp và tôi có thể nhìn thấy chấm đèn hiệu màu đỏ của ngọn hải đăng Punta de Amatique cách chừng một dặm về hướng đông. Chúng tôi bay qua vịnh theo hướng đông bắc.

– Được rồi, mục tiêu vẫn đang áp sát, – anh chàng WSO thông báo, – chín mươi. Tám mươi năm.

– Được rồi, – Viên phi công nói, – Chú ý.

Động cơ quay chậm lại và tôi thấy chúng gần như dừng hẳn.

Bên mạn trái, một tên lửa MD4 đã khởi động theo tín hiệu bằng nhiệt. Chúng tôi rơi xuống. Ở độ cao khoảng hai ngàn feet, viên phi công xoay cánh quạt về vị trí cũ nhưng vẫn để máy bay gần như rơi thẳng về phía đám bọt bể sát mép bờ bán đảo, xuống tới tầng không khí dày đặc hơn giúp làm giảm xác suất trúng mục tiêu của rốc-két ATA. Tôi có cảm giác như chúng tôi đang sục vào bơ lạc mềm. Trên bản đồ của tôi, đầu tên lửa trông như đang treo lơ lửng cạnh vị trí cố định của chúng tôi ở giữa màn hình, chốc lại nhón chân tiến gần hơn một chút rồi lại lảng xa ra.Ở độ cao dưới hai mươi feet so với mức nước biển, viên phi công điều khiển máy bay vọt lên cao theo một đường parabol êm đến chóng mặt. Tôi cảm thấy hai hòn dái như chạy ngược lên qua ống bẹn rồi qua đường tiêu hóa lên tới tận miệng. Tôi nuốt chúng xuống. Xin thề rằng tôi thực sự cảm nhận được cả hai, hòn bên phải to hơn hòn bên trái và tôi phải nuốt xuống từng hòn một. Một tiếng PHụụPPP vang lên bên dưới chúng tôi, nghe như tiếng một đầu van an toàn bật khỏi chiếc máy pha cà phê khổng lồ, đó là lúc chấm màu đỏ bay ngang qua chúng tôi, nó lao theo cái mồi nhử xuống nước. Tôi không được chứng kiến vụ va chạm, nhưng chắc hẳn quả rốc-két đã dâm xuống vị trí chỉ cách chúng tôi chừng một trăm feet, ngay sát ngọn hải đăng. Sức ép đè lên cabim và những tiếng răng rắc phát ra cùng một lúc khi lớp vỏ hợp kim của chiếc Hippo dãn nở dưới tác dụng của nhiệt. Cửa sổ gần lõm cả vào bên trong do sức ép và khi trở lại hình dáng bình thường thì đã đẩy vết nứt rạn. Sỏi đá đập rầm rầm vào bộ càng má bọc sợi tổng hợp. Chúng tôi bay cao lên, sau đó tất cả trở lại bình thường. Tôi bật camera đặt ở đuôi máy bay. Tất cả những gì tôi nhìn thấy là đám mòng biển bay nháo nhác và một đám hơi nước nhìn như đĩa khoai tây nghiền to bằng tòa nhà mười tầng. Không hiểu sao tôi lại nghĩ tới lũ cá vẹt chết oan. Chiếc máy bay lấy lại tư thế thăng bằng, thẳng hướng tây bắc ra vịnh Honduras và lại bay cao lên.

– Nhanh lên, – anh chàng WSO nói, – chúng vẫn còn năm đầu đạn nữa. Đừng để mất thời gian.

Chúng tôi bay lẫn vào mây và tiếp tục bay cao lên. Cái trò nhảm nhí này, – tôi rủa thầm. Nếu thích chơi trò chiến tranh , tôi đã vứt mẹ cái đống điểm sát hạch vào đại học mà gia nhập lính thủy đánh bộ, làm giả giấy khám sức khỏe và bốc hơi ở Irap rồi. Tôi liên lạc với kênh 4.

– Marena? – tôi gọi, – em ổn chứ?

Tôi không nhìn thấy mặt cô ta qua camera trên mũ, hay chính xác hơn, cô ta chỉ hiện lên dưới dạng một cái nhãn để tên.

– Em không sao, – vài giây sau mới có tiếng trả lời, – em vừa nhận được điện thoại của Max. Em sẽ gọi lại cho anh sau.

Tắt phụt một nhát.

Tôi ngửi thấy mùi bãi nôn nằng nặng, điểm thêm mùi nước biển và có lẽ cả mùi phân nữa. Ai đó đã sợ đến mức để cho tất cả những thứ ấy tuôn ra. Chắc là Michael rồi, – tôi nghĩ. Đúng là thẳng hèn.

– Quay lại đi, – anh chàng WSO nói qua radio. – Tôi sẽ bắn hạ đấy. Tôi sẽ bắn hạ đấy.

– Muerancen huecos (chết đi, lũ đồng tính), – viên phi công Guatemala đáp. Còi báo động của chúng tôi lại rít lên. Chết tiệt. Tôi lại lên một cơn hoảng hồn nữa và rúc lọt thỏm vào cái ghế với cảm giác an toàn giả dối.

– Ana, cho hắn một phát đạn đi, – viên phi công nói.

– Được thôi, – Ana đáp, – mẹ cái lũ ấy. Nhắm mục tiêu. Tấn công.

Trên màn hình của tôi, một cửa sổ nhỏ hiện lên thông báo chiếc máy bay gần hơn là mục tiêu của đầu đạn MD4 thứ hai. Theo mô tả, tên lửa MD4 là loại phương tiện hàng không không người lái đa tính năng. Chúng có thể được dùng làm mục tiêu đánh lạc hướng đạn rốc-kết như vừa rồi, nhưng cũng có thể đóng vai trò tên lửa tấn công. Chúng chậm hơn rốc-két ATA, tốc độ chỉ bằng tên lửa Sidewinder hay gì đó nhưng vẫn có thể bay đến bên cạnh một chiếc máy bay, lên áp sát và nổ tung. Tôi dõi theo đầu đạn MD4 thứ hai tách khỏi máy bay của chúng tôi và lượn về phía hai chiếc Comanche.

– Mày sắp toi rồi đấy, thằng ỉa đùn, – anh chàng WSO của chúng tôi nói qua radio.

– Thằng phét lác, – viên phi công Guatemala đáp.

Trong lúc đó, đầu đạn ATA thứ hai đã tiến sát tới đuôi chúng tôi.

– Tôi sẽ bắt chúng lui hẳn lần này, – anh chàng WSO nói với chúng tôi.

Tôi phóng lớn hình ảnh thu từ camera đặt ở đuôi máy bay. Một chuỗi thứ gì đó nhìn như hàng ngàn đốm lửa bắn tung tóe sau chúng tôi, như thể chiếc máy bay của chúng tôi đang đẻ ra cả một đàn sứa vàng. Mỗi đốm lửa thực chất là một quả bóng ni lông trắng kim loại nhỏ có thể tự bơm căng, bay theo một chuỗi dài những sợi tua và một thân pháo sáng cháy đùng đùng. Trên màn hình theo dõi ra-đa của bản đồ, một vệt nhiễu xuất hiện giữa chúng tôi và quả rốc-két, còn trên màn hình theo dõi hồng ngoại thì nhìn như có tới một ngàn điểm phát nhiệt. Dù là thế nào, bộ óc thô sơ của quả rốc-két cũng bị gãy nhiễu và nó bay chệch đi. Cùng lúc đó, viên phi công cho chúng tôi lượn một đường hình chữ S. Có tiếng rít chói tai, tiếp đến là những tiếng rên rĩ nhỏ dần khi một quả rốc-két khác lao sạt qua phía dưới chúng tôi. Chắc nó đã nổ ở đâu đó vì chúng tôi không phải tránh nó nữa. Thay vào đó, chúng tôi lấy lại tư thế bay song song với mặt đất và lao thẳng về hướng đông bắc. Yên tĩnh một lúc, cứ như không phải chúng tôi đang đánh nhau mà chỉ đang lấy trộm máy bay của người khác đi chơi một vòng. Tuy nhiên, quan sát trên bản đồ, hai chiếc Comanche đang lừ đừ chặn đầu ở hướng đông, chắn ở khoảng giữa chúng tôi và mặt trời sắp lặn. Tôi đoán ý định của chúng là sẽ tiến lại thật gần và bắn đồng thời hai quả rốc-két, như thế, chúng tôi sẽ không có cách nào làm trệch hướng hoặc tránh được cả hai.

Thời gian tạm ngừng giữa trận chiến cứ kéo dài mãi.

– Mẹ yêu con lắm lắm, – tiếng Marena nói với Max, – con ngoan nhất trên đời của mẹ.

Tôi dõi theo hai chấm màu da cam của quân địch đang iến lại gần. Tôi dõi theo các chỉ số dòng chảy bên dưới. Tôi dõi theo chấm màu xanh lá cây tượng trưng cho đầu đạn MD4 của chúng tôi đang lượn mỗi lúc một sát vào chiếc Comanche gần nhất. Trên màn hình camera đặt ở đầu máy bay, đám mây bên dưới chúng tôi nom như một lớp băng nổi đầy những nếp gấp nhăn nheo. Một khối máy tính lớn nhô lên trên khoảng không quang đãng ở tít xa đằng đông nom như những mái vòm cung điện trong Nghìn lẻ một đêm, đánh dấu vị trí của vỉa đá ngầm Cuba bên dưới. Tôi vẫn chưa nhìn thấy chiếc máy bay nào. Nhưng cuối cùng, chấm sáng tương ứng với chiếc Comanche gần hơn cũng quay ngoắt về hướng đông nam. Viên phi công đã nhận thấy điều gì đang diễn ra. Chiếc tên lửa không người lái đang lặng lẽ tiến sát đến phía sau hắn. Hắn cua một đường gấp theo hình parabol, cố đẩy nhiệt của động cơ máy bay phản xạ xuống mặt nước nhưng đã quá muộn. Trên màn hình video, tôi chỉ thấy một ánh chớp màu vàng lóe lên khi đầu đạn MD4 phát nổ, tiếp đến là một vệt màu đỏ cam của nhiên liệu bốc cháy kéo một vạch xoắn ốc nằm ngang.

– Đồ kém cỏi, – viên phi công của chúng tôi buông một câu.

– Mẹ đoán xem chuyện gì xảy ra trong trận bóng hôm nọ nào? – tiếng của Max.

Lúc này, chúng tôi đã tới đủ gần để trông thấy chiếc trực thăng đang bay lờ đờ sát mặt biển với một quả cầu hơi nước bao quanh, bắn ra những tia lửa cháy rừng rực. Một chiếc ghế phóng để nhảy dù lúc nguy cấp bật lên khỏi đám khói và hơi nước. Nó bật lên khá cao nhưng không mở được dù, vì vậy, viên phi công Guatemala vẫn ngồi trên chiếc ghế, lao xuống theo một đường xoáy như quả cầu lông bị vẹo, để lại phía sau những tàn lửa hồng của nhựa cháy.

– Dios mio (lạy Chúa tôi), – anh chàng WSO lầm rầm, và qua giọng nói, tôi biết chắc anh ta đang làm dấu thánh giá.

– Viên phi công phụ có nhảy dù được không? – Ana hỏi.

– Tôi nghĩ là không. Thứ thiết bị ấy chỉ là đống bỏ đi, – anh chàng WSO đáp, – chúng có làm ăn được gì bao giờ đâu.

– Chết tiệt. Tôi phải chịu trách nhiệm việc này, – cô ta nói.

Chúng tôi bay qua xác chiếc máy bay. Mặt nước đang sủi tăm. Chiếc Comanche thứ hai đã xuất hiện trên màn hình. Tôi đoán nó chuẩn bị khai hỏa, nhưng không hề. Có lẽ viên phi công đã hãi chúng tôi, hoặc chỉ huy của hắn ra lệnh cho hắn không được dây vào.

Chúng tôi lại rẽ hai mươi nhăm độ sang hướng bắc, bay vào vịnh Honduras. Chúng tôi bay qua điểm gần nhất với chiếc Comanche thứ hai. Không có chuyện gì xảy ra. Chúng tôi bay tiếp.

Dù sao, – tôi nghĩ, – chắc mọi chuyện cũng sẽ ổn thỏa thôi. Không sao đâu.

Không ai nói gì trên kênh liên lạc chung, vì vậy tôi ấn phím THEO DÕI TẤT CẢ. Cũng chẳng thấy ai nói năng gì. Chắc các bạn nghĩ người ta sẽ nhảy lên, reo hò và chúc mừng nhau. Nhưng không. Tuy nhiên tôi cũng không cho là họ bị xáo trộn bởi những thiệt hại vừa rồi. Đơn giản là vì mọi việc vừa bất thình lình đi từ một vụ rắc rối thành một vụ thực sự rắc rối. Bỗng dưng tất cả chúng tôi đều đủ tư cách để ngồi từ vô khối thời gian. Chưa phải ain cũng đã bình tâm lại sau chuyện vừa rồi. Hơn nữa, chúng tôi vẫn chưa về đến nhà an toàn. Tôi nhận thấy tốc độ đã quay về 600km/h. Tôi chuyển sang nhìn bằng chiếc mũ của anh chàng WSO. Anh ta đang kiểm tra lướt qua một loạt các tần sóng liên lạc. Có hàng tá người trong cơn tức giận đang gào lên bằng tiếng Tây Ban Nha và một vài câu tiếng Anh. Tôi nghe được mấy từ “cho cất cánh toàn bộ”. Nghe có vẻ không lành lắm.

– Có chuyện gì thế? – Ana hỏi anh ta.

– Không hay lắm, – anh ta đáp, – tôi nghĩ căn cứ Tyndall đang đưa thêm máy bay đến. Có lẽ họ đã trao đổi với căn cứ Belize.

– Chết tiệt.

– Tuy nhiên, bên nào cũng nghĩ chúng ta thuộc phe bên kia.

– Hay thật đấy, – cô ta đáp, – Thôi được, thế anh nghĩ sao?

– Tôi nghĩ chúng ta sắp bị chụp ảnh.

– Chết tiệt.

Hẳn nhiên là họ vẫn nuôi ý định đưa chiếc máy bay này về Stake nguyên vẹn.

– Để tôi nghĩ một giây.- Ana nói. – Chiếc thuyền A còn cách bao xa?

– Khoảng… Ờ… một phẩy năm phút. Nó đang ở Northeast Cay.

Tôi mở rộng cửa sổ bản đồ. Nó đang hiện hình ảnh tối thiểu mười hai chiếc trực thăng và phản lực khác đang lao tới, trong đó có cả hai chiếc F-22 Raptor đến từ căn cứ Belize

– Chúng ta còn khoảng bốn phẩy năm phút nữa, – anh chàng WSO thông báo, ý anh ta là trước đợt đánh chặn thứ hai của quân địch.

Một khắc im lặng ngắn ngủi nhưng nặng nề.

– Tốt thôi, – Ana đáp. Cô ta vào kênh liên lạc chung. – Tất cả chú ý. Chúng ta chuẩn bị bỏ chiếc máy bay này.

-Từ từ đã, – viên phi công nói. Lần đầu tiên anh ta tỏ vẻ hơi bối rối. Chắc anh ta không quen với việc vứt bỏ những thứ còn tốt.

– Việc này không ảnh hưởng gì đến lương lậu, tiền thưởng hay quyền lợi của bất cứ ai đâu. – Ana nói. – Dù sao đó cũng là lựa chọn duy nhất, nếu không chúng ta sẽ phải hạ cánh ở Miami và ngồi chờ xem họ có đưa được chúng ta ra khỏi tù trước lễ Giáng sinh hay không.

– Không được, nếu thế chúng ta sẽ chỉ còn cách quên toàn bộ dự án này đi. Jed, phải về được Stake để giải mã các thông tin. Gọi cho LW mà xem, ông ta cũng sẽ nói thế.

– Nào, – Ana nói, chắc là với viên phi công.

– Thôi được, – anh ta đáp, – làm thế vậy.

– Tốt.

– Chúng ta đang bắt được tín hiệu từ “Con vịt Alpha”, cô muốn gọi không?

– Cứ cho khởi hành toàn bộ và bảo họ đi theo tín hiệu của bè cứu sinh, chứ không phải đến chỗ chiếc máy bay này. Và đó sẽ là lần liên lạc cuối cùng. Họ sẽ phải tìm chúng ta. Hiểu chứ?

– Hiểu.

– Nhưng nghe này, anh phải làm cho giống một vụ tai nạn.

– Để làm gì? Lấy bảo hiểm à?

– Phải đấy. Sao nào? Anh định nói với ai chuyện ấy à?

– Không, không…

– Thế thì tốt, – Ana nói. Chúng tôi bay thẳng hướng đông bắc, qua dãy Laurence Rock rồi qua Ranguana Cay, một hòn đảo chia thành hai múi hình dáng như con trùng đế giày nằm giữa một dải dài màu xanh lục trong vắt của san hô sống.

– Chúng ta không có thiết bị nổ điều khiển từ xa, – anh chàng WSO nói.

– Nhưng các anh có kíp nổ chứ, phải không? – Ana hỏi.

– Phải. Hai cái.

– Vậy hãy dùng một cái để làm bắt lửa một ít xăng.

– Ở trên này không có thùng xăng dự trữ, – anh chàng WSO nói, – ừm… có lẽ tôi sẽ khoan một lỗ trên ở dầu nhờn.

– Ý hay đấy, – Ana đáp, – Được rồi. Sóng thế nào.

– Năm feet, – anh chàng WSO nói, – không sóng lớn.

– Nhiệt độ không khí?

– Bảy mươi tư. Sức gió mười lăm trên bốn mươi.

– Nhiệt độ nước biển?

– Sáu mươi.

– Tốt. Gendo?

– Vâng, thưa chỉ huy.

– Đặt chế độ tự động để đưa chúng ta từ từ xuống gần thuyền A.

– HUA, – viên phi công đáp, té ra bí danh của anh ta là Gendo.

– Nhưng đừng để cái thứ chết toi này bay vào không phận Cuba.

– Vâng, rõ

– Và hãy đảm bảo rằng nó không rơi xuống đầu bất kỳ ai, – Marena xen vào.

– Chúng tôi sẽ làm mọi việc có thể.

Viên phi công giảm tốc độ xuống còn hai trăm cây số một giờ. Chúng tôi bay qua đảo Silk vào biển Mar de Antillas, hướng đến cái vạch màu xanh tím sẫm của hải lưu Gulf Stream ở cuối đường chân trời.

– Tất cả sẵn sàng, – Ana ra lệnh. – Bỏ mũ.

Tôi bỏ mũ xuống. Nó có quạt thông gió, thế mà cái đầu gần như hói trụi của tôi vẫn có nhỏ giọt mồ hôi và không khí như đóng băng lại trên đó. Marena, Lisuarte, Michael, Hitch, Grgur và tôi, tất cả đều liếc sang nhau, trong đầu phân vân không biết ai là người đã nôn lúc nãy. Chúng tôi lao xuống khá nhanh. Ana từ đằng sau len qua chúng tôi. Cô ta vừa lấy trong tủ ra một chiếc cưa không dây và trèo vào cabin chỗ anh chàng WSO.

– Nhờ xóa hết thông tin trên các đĩa khác, – cô ta vừa dặn vừa bắt đầu cưa vào một rãnh nhỏ trên bản gần thiết bị phía trên đầu, giống như đang nạy đồ hộp.

Không có chiếc mũ, tôi không biết chúng tôi đang bay với tốc độ bao nhiêu, vì thế, tôi bèn nhìn xuống bảng điều khiển, nhưng cũng không thấy. Tuy nhiên, có vẻ như chúng tôi đang lao xuống với tốc độ hai mươi dặm một giờ.

– Tất cả tháo dây bảo hiểm, – Ana ra lệnh qua loa, – mặc áo phao và kiểm tra tai nghe.

– Nào, Jed, bắt đầu nhé? – Marena nói. Sau vài lần thử, họ lôi được tôi ra khỏi chỗ ngồi. Cô ta giúp tôi mặc một chiếc áo phao mỏng màu vàng, không khác gì đang thay bỉm cho tôi. Cô ta đưa tôi một cặp kính bơi thuyền bình thường. Cuối cùng, cô ta lôi ra một chiếc mũ giống như mũ bảo hiểm cho người đi xe đạp, với một bóng đèn hiệu nhỏ trên chóp và chụp nó lên đầu tôi. Tôi nhận thấy tất cả đều đã đội một chiếc như thế.

– Nhớ đừng tắt tai nghe nhé! – Marena nói. – Và nhớ để mở kênh liên lạc để có thể liên lạc với cả đội. Được chứ?

– Vâng, – tôi đáp, – thưa cả đội.

Tôi nhận ra rằng tuy tôi vẫn tỉnh táo nhận thức được mọi việc như thường nhưng cử động thì tôi không ổn lắm. Chắc là mình mệt quá thôi, – tôi nghĩ. Nào làm tình, nào leo lên, nào leo xuống, nào thức đêm, cũng khá nhiều căng thẳng đấy. Rồi, mình sẽ đánh một giấc trên xuồng. Không sao đâu. Michael, người tỏ ra hiểu biết đôi chút về máy bay, chen qua chỗ tôi, kéo theo hai bọc lớn màu vàng, bơm căng lên sẽ trở thành hai chiếc bè cứu sinh đầy đủ tiện nghi với mái chèo có thể gập lại và thậm chí cả động cơ nhỏ gắn ngoài với lượng nhiên liệu đủ chạy được một dặm. Ana từ buồng lái quay ra, tay cầm theo một khối màu xam xám có vẻ dễ vỡ. Tôi đoán đó là ổ cứng của máy ghi âm trên máy bay. Cô ta ngồi xuống sàn, cúi xuống cái ổ, lôi từ trong đó ra một cái chiếc hộp nhựa bé xíu và dùng chiếc tua vít xọc mạnh vào nó. Michael buộc hai chiếc xuồng vào khoang chở hàng và món chúng vào một cái quai móc bên trên cửa trái. Tôi đoán là chúng tôi cũng sẽ xuống như thế.

Ana đứng lên.

– Nào, – cô ta nói, – mọi người đều nghe thấy tôi chứ?

Mọi người đều nghe thấy.

– Sẵn sàng rời máy bay rồi chứ? Mũ bảo hiểm ổn cả chứ? Tốt. Thứ tự sẽ là Gendo xuống trước tiên với chiếc xuồng thứ nhất. Asuka và Pen-Pen theo sau ngay lập tức. Tiếp đến là Akagi và Kozo. Zepp lên xuồng thứ hai. Rồi đến Marduk và Shiro. Cuối cùng là tôi. Vậy là năm người trên xuồng thứ nhất và bốn người trên xuồng thứ hai. Rõ rồi chứ?

Tôi đoán là tất cả đã rõ. Anh chàng WSO len qua chúng tôi xuống đuôi máy bay. Anh ta bò xuống tít phía cuối, giật một tấm vách trên sàn và bắt đầu chọc ngoáy thứ gì đó.

– Tốt rồi, – Ana nói. – Nhớ rằng khi tất cả đã lên thuyền, chúng ta sẽ chuyển sang thuyền C ngay khi có thể, vì thế phải luôn sẵn sàng mọi trang thiết bị. Rõ chứ?

Tất cả đều ra ít nhiều ra hiệu “rõ”.

– Áo phao của mọi người sẽ tự động bơm căng khi gặp nước. Hoặc nếu không, hãy thổi vào cái van nhỏ. Mọi người điều biết cách nhảy quay lưng rồi chứ?

Không ai trả lời.

– Như trên tàu Jacques Cousteau ấy, – cô ta nói tiếp, – có ai sợ việc này không? Pen-Pen?

– Tôi sẽ nhảy, – tôi đáp.

– Anh ấy nhảy được, – Marena nói.

– Có ai còn bỏ sót bất cứ vật gì khiến họ nhận dạng được chúng ta không? Còn ai chưa tháo hết dây bảo hiểm không? Pen-Pen?

Xem ra tất cả đều đã sẵn sàng.

– Tốt. Hãy nhớ, cứ thả nổi người. Đừng quẫy đạp. Chúng tôi sẽ vớt các vị lên.

– Chúng ta sẽ nhìn thấy chiếc thuyền trong khoảng tám mươi giây nữa, – viên phi công thông báo, – cô có muốn gọi họ không?

– Không phát tín hiệu nữa, dưới bất kỳ hình thức nào, – Ana đáp, – họ sẽ tự nhìn thấy đèn hiệu.

Cô ta dùng nắm đấm nện một phát lên trần và cánh cửa lớn bên mạn trái mở ra. Áp lực tăng lên như thể chúng tôi đang đứng trong một quả bóng bị thổi quá căng. Mẹ kiếp, ngoài kia còn sáng quá, – tôi nghĩ. Chúng tôi còn cách đỉnh sóng cao nhất chưa đến mười feet và ngay cả với tốc độ chậm như thế này, tôi vẫn cảm thấy như chúng tôi đang lao đi vùn vụt trên đám bụi nước. Ở đằng chân trời, ngay trên những đám mây thấp bao phủ Northeast Cay, mặt trăng sáng trắng in rõ mồn một hình Con Thỏ Vấy Máu đang vụt chạy trốn khỏi các Chúa Tể của Bóng Đêm. Ana quăng chiếc máy ghi âm chuyển bay ra khỏi cửa.

Có tiếng xè xè ở phía cuối máy bay và mùi WD-40. Tôi nhìn quanh. Trên sàn ngay cạnh chân anh chàng WSO là một tia chất lỏng phun lên. Anh ta đã đục thủng một trong mấy cái ống dầu nhờn và đang hý hoáy với thứ gì đó nhìn như chiếc đồng hồ kỹ thuật số rẻ tiền.Cái kíp nổ. Cha mẹ ơi. Đến lúc phải đi rồi.

– Được rồi, đi thôi, – Ana nói.

Gendo – người mà lúc này nhờ hệ thống lái tự động nên chẳng còn việc gì phải làm nữa – tháo chiếc xuồng đầu tiên, đẩy nó ra khỏi cửa và biến mất theo nó sau một cú nhảy ở tư thế ngồi quay lưng.

– Xong, – Ana gào to.

Marena nắm vai tay tôi, ấn tôi ngồi xuống.

– Nào. Ba, hai, một. Nhảy.

– Từ từ đã, – tôi kêu lên, nhưng không thành tiếng. Mặt nước hỗn độn bên dưới chúng tôi nhìn như đang nằm trên một cái máy mài nhám. Marena kéo tôi ngã ngửa ra sau cùng cô ta và chúng tôi rơi vèo khỏi ô cửa, như một chiếc tách và một chiếc đĩa rơi khỏi bàn trả xuống nền gạch.

65

Chúng tôi lượn vòng trên thành phố Osxaca. Loại máy bay CH-138 Kiowa này nhỏ bé, chậm rãi và thoáng đãng, ngược hẳn với chiếc Hippo. Bên dưới chúng tôi, cách chừng một ngàn năm trăm feet, các bãi đất chăn nuôi trồng trọt dần nhường chỗ cho những cánh rừng, và khi đất đai uốn dốc lên vùng cao nguyên thì rừng nhường chỗ cho các trảng cây bụi. Bây giờ là 9 giờ 40 phút sáng, ngày 29 tháng 2, một ngày không tên, không thánh thần bảo trợ, cứ sau 1040 ngày mới có một ngày và vì lẽ nào đó tôi luôn cảm thấy đó là một ngày may mắn, trái với quan niệm của người Maya. Đã năm ngày kể từ vụ khó chịu nho nhỏ mà chúng tôi phải trải qua trên vịnh. Trời nắng, nhiệt độ là 68oC và chúng tôi đang ở cái độ cao dễ chịu là 8.400 feet so với mặt nước biển. Mười sáu tiếng trước, chúng tôi được thông báo một trong các vệ tinh cảm ứng từ tính đã định vị được chữ thập đá nam châm.

Nó vẫn thuộc một trong những khu vực mà chúng tôi đã chỉ định là nơi cất dấu an toàn, nhưng lại cách quá xa Ix. Không biết hẳn, hay đúng hơn là tôi, làm gì ở tận cái nơi quỷ quái này nhỉ? Có lẽ Jed 2 buộc phải tới Teotihuacán vì một lý do nào đó. Hoặc hắn chủ tâm tìm cách tới đây và phải chôn những mẩu ghi chép lại đây vì sợ không trở về Ix được nữa.

Hoặc hắn biết mình không thể trở về.

Thôi, dù sao hắn cũng làm được đến đây, phải vậy không? Thế là khá lắm rồi. Có lẽ rốt cuộc tôi cũng sẽ dập tắt được cơn ác mộng này.

Chúng tôi rẽ sang hướng tây và nhắm tới trung tâm của một đỉnh núi thấp bằng phẳng trên vùng cao nguyên nằm ngay rìa bắc Coixtlahuaca. Ở đây chỉ mọc rặt có hai giống thông bụi và xương rồng ocotillo. Một nơi trú ngụ tuyệt hảo cho giống nhện đen. Bốn gã nhân viên ES lực lưỡng đến từ Mexico City, ăn vận như những gã chủ trang trại nuôi súc vật nhưng chiếc mũ cao bồi quá mới, quá đắt tiền, đứng trên một bãi cắm trại ra hiệu vẫy chúng tôi. Họ có hai con lừa thồ hàng, những cái bọc lớn, một chảo parabol thăm dò mặt đất đặt trên kiềng ba chân, một máy phát điện nhò và một máy nén đặt cạnh một cái hồ rộng gần bốn feet vuông. Chúng tôi hạ cánh, chiếc máy bay chạm vào cái bóng của nó giữa một đám mây sỏi cát bụi mù. Ana, Michael, Marena và tôi leo xuống. Ana bàn bạc với bốn gã nhân viên ES chừng một phút. Ba người còn lại nhìn xuống cái hố. Họ đã đào được năm feet bằng xẻng và búa khoan. Còn phải đào sâu thêm hai feet nữa, một cách thận trọng hơn, với những cái nạo bằng nhựa. Michael nói không việc gì phải lo lắng nhiều và cứ để họ hoàn tất việc này. Phải bốn mươi phút sau, một vật nhìn như một khối bụi bán hóa thạch lớn mới hiện ra. Họ nhấc nó lên và dùng chổi phủi sạch. Đó là một chiếc âu đất nung nông, rộng lòng, đường kính chừng hai mươi inch và cao chừng bốn inch, trên nắp có một cái núm hình con ếch. Nó rạn nứt hết cả, một vài mảnh đã rời cả ra, để lộ một bánh sáp ong cứng màu nâu bên trong. Nó lớn hơn nhiều so với kích thước cần thiết của một lá thư. Chúng tôi đặt nó vào một khoang nhựa chân không lớn ở đuôi chiếc Kiowa và cất cánh. Chúng tôi dừng chân nạp nhiên liệu ở Nochixlan – tình cờ địa điểm đó cách không bao xa. Hồ Thủy Tinh Xanh, nơi xảy ra vụ nổ năm 2010 – và quay về thành phố Oaxaca và chuyển sang một chiếc Cessna. Asley 2 (các bạn nhớ cô thư ký của Taro chứ?) đã ngồi sẵn trên đó, bưng một chiếc khay bằng giấy bìa trên bày những chiếc tách Styrofoam kiểu cũ, tỏa hơi khen khét đặc trưng của cà phê Bustelo – ái dà, có tuyệt hơn không khi được uống cốc cà phê đặc quánh của quê nhà, cà phê ra cà phê, thay vì cái thứ cà phê hữu cơ Kona vớ vẩn mà anh quen dùng ở Mỹ? Tôi uống liền hai tách. Chúng tôi rẽ sang hướng đông – đông nam, quay về Stake.

– Sao các vị cho rằng đó là chữ thập duy nhất anh ta để lại? – Asley 2 hỏi chúng tôi. – Anh ta lý ra phải cho chúng ta biết anh ta có nằm trong hầm mộ đó hay không.

– Có lẽ anh ta không về được đến Ix, – Michael đáp rồi quay sang tôi nói. – Xin lỗi.

– Không sao. – Tôi đáp.

Đúng vậy, chuyện quái quỷ gì đã xảy ra nhỉ? – tôi tự hỏi. Ngoài những lý do chính đáng khác để tò mò, tôi phân vân điều này cũng bởi vì nó xảy ra với tôi. Gần như thế.

– Ngoài ra, có vẻ như chúng ta không còn cơ hội quay lại cậy các hầm mộ nữa. Binh lính chắc đang cắm đầy ở đó.

– Phải, nhưng rồi chúng ta cũng sẽ giải quyết việc đó, – Marena nói. – Có lẽ anh ta đã chôn được mình ổn thỏa trong chiếc quan tài nhưng chữ thập đánh dấu nó lại bị đào lên hoặc bị phá hỏng. Hoặc anh ta có lý do gì đấy để không chôn thông điệp thứ hai. Hay có khi trong cái gói này đã có chỉ dẫn gì về nó. Phải vậy không? Cũng có thể anh ta không tự chôn nó mà cử người khác mang nó lên đó, vì một lý do nào đó.

– Ừ, dù gì tôi cũng sẽ lo sao cho chúng ta sớm hiểu rõ sự tình này. – Michael nói.

Và lão đã làm đúng như lời hứa. Sáu sinh viên cao học của lão đã biến một phòng dưới tầng hầm Stake thành phòng nghiên cứu khảo cổ và chỉ một tiếng sau khi về đến nơi, chúng tôi đã được nhìn thấy các hình ảnh chụp X-quang trong khi các sinh viên cứ hai người một thay nhau tách khối sáp ong đặt trog một khoang găng Lucite lớn chứa đầy khí argon. Có tất cả bảy đồ vật trong chiếc bát. Sáu trong số đó là những chiếc bình đất sét nhỏ có nặp đậy. Chỉ với tia X-quang, họ không chụp được rõ lắm thứ đựng bên trong, nhưng có thể nhìn thấy vài mẩu xương động vật nhỏ trong ba chiếc bình. Vật thứ bảy là một chiếc hộp đất sét chưa nung, to bằng một cuốn sách bìa cứng dày, bên trong có ba cuộn giấy nếp kiểu Maya, đặt trong đống muối mỏ nom bân bẩn. Michael nói họ có thể đọc được chữ viết bên trong mà không cần mở chiếc hộp, giống như đã làm với cuốn Thư tịch Nurnberg, nhưng vì chúng sẽ chẳng hư hại gì khi được đặt trong khoang găng chứa đầy khí argon nên cứ lôi chúng ra mà đọc như bình thường cho nhanh. Lão nói việc này sẽ mất khoảng tám tiếng đồng hồ.

Trừ Michael, tất cả chúng tôi lết về phòng ngủ của mình. Vì lý do nào đó mà không ai tỏ ra muốn ăn mừng vội. Tôi đã nghĩ đến chuyện gõ cửa phòng Marena nhưng lại quyết định rằng mình vẫn còn quá bối rối, hay đúng hơn là còn quá ngờ vực, cho dù có vẻ như rốt cuộc chúng tôi đã đạt được một chút cái có thể gọi là thành công. Cảnh sát quốc tế vẫn đang tiếp tục điều tra vụ tai nạn của chiếc Hippo và khó lòng mà tin được rằng họ sẽ không lần ra được chúng tôi. Và đội lính tuần tra đã tìm thấy toàn bộ thiết bị của chúng tôi ở phế tích Ix, thế nên hy vọng quay lại đó để hồi sinh cho Jed 2 xem ra khá xa vời. Và Không Đời Nào vẫn mất tích.

Trong bản tường trình, Ana Vergara đã ghi rằng cô ta nghĩ Không Đời Nào chính là kẻ đã mật báo cho quân đội Guatemala về chúng tôi. “Toán lính tuần tra đó tiến thẳng về phía chúng tôi” – cô ta viết – “không thể có chuyện họ chỉ đang tìm kiếm vu vơ. Và tất cả gián điệp nằm vùng của chúng tôi đều đáng tin cậy”. Họ cũng cho chúng tôi xem hồ sơ chứng thực một khoản tiền lớn đã được chuyển vào và rút ra tài khoản của Không Đời Nào ở Nicaragoa. Nhưng, như tôi đã nói với họ, bất cứ ai cũng có thể dàn cảnh vụ việc đó. Dù họ có cho tôi xem đoạn băng ghi hình anh ta tự rút tiền thì điều đó cũng chẳng chứng minh được điều gì. Không có chuyện Không Đời Nào làm những việc như thế, tôi nói vậy đấy. Không chỉ vì anh ta không làm những chuyện như vậy, mà còn vì anh ta sẽ nhận được tiền thù lao từ chúng tôi. Thủ phạm ắt hẳn phải là một trong những kẻ được gọi là gián điệp nằm vùng đáng tin cậy của ES, kẻ nào đó trong làng. Họ đang vung quá nhiều tiền cho những kẻ gián điệp như thế, – tôi nghĩ. Càng có nhiều người biết một chuyện gì đó thì anh càng dễ bị lộ. Và cứ thêm một người mới có khả năng đó lại tăng lên gấp mười lần. Thực ra – tôi nghĩ thôi chứ không nói – có khi chính ES đã chuyển tiền vào tài khoảng của Không Đời Nào để khiến anh ta có vẻ là tên bất lương nhằm che đậy sự kém cỏi của chính họ.

Dù sao, ngay cả khi họ không dựng lên chuyện này thì tất cả lũ bọn họ cũng đều đang đổ tội cho tôi về vụ lộn xộn. Chính tôi đã khăng khăng đòi đưa theo một kẻ không chuyên nghiệp và đấy, xem chuyện gì đã xảy ra. Họ còn băn khoăn không biết ngoài việc chỉ điểm cho quân đội Guatemala, liệu anh ta có tiết lộ các thông tin bí mật về dự án Chocula hay không. Tôi nhất quyết bảo rằng tôi cần thấy những bằng chứng xác thực về việc anh ta bán đứng chúng tôi trước khi tin bất cứ điều gì. Và họ không muốn làm tôi quá khó chịu, bởi tôi vẫn còn có ích trong việc giải đoán những vấn đề liên quan đến cờ Hiến tế. Nhưng đây vẫn là một trong những lúc mà tất cả mọi người đều nhìn anh bằng cặp mắt là lạ. Ngay cả Marena cũng ngờ vực. Và tôi không thể trách cô ta.

Tôi giở mình trần trục suốt hai tiếng liền rồi từ bỏ ý định ngủ nghê, xỏ đội giày hiệu Croca được tặng, nhón bước đi qua sân tới bàn bảo vệ, mở một trong mấy chiếc máy tính xách tay được cài mật khẩu và luôn trong tình trạng không nối mạng của họ. Tôi lướt qua một bản báo cáo phân tích bằng phần mềm DHI, dài 335 trang dưới dạng PDF về việc điều tra lần theo các luồng tiền trong vụ Nỗi Kinh Hoàng ở Disney World. Nó được trình bày một cách lộn xộn và bị sửa chữa nhằng nhịt với chi chít những dòng chữ như “CHỉ THEO Dõi” và “ĐáNG NGHI”, hệt như đạp cụ của một bộ phim gián điệp. Nhưng kết luận cuối cùng là cả hai chất đồng vị polonium 209 và 210 được phát tán trong vụ tấn công đều chắc chắn được sản xuất tại Nga Xô Viết vào những năm 1980. Tương tự như khuẩn than, các chất này đã được nghiền mịn tới mức có thể hoạt động như thể chúng nhẹ hơn cả không khí, ngoài ra, một lớp vỏ hydrocacbon mỏng bao quanh các hạt cho phép chúng bám chặt vào các hạt nước trong sương mù ngày hôm đó – hiện tượng này cũng có thẻ do bàn tay con người sắp đặt. Tất cả đều cho thấy đây là một sản phẩm chuyên nghiệp của quân đội. Hệ thống phát tán đã được chuẩn bị khá công phu, bao gồm ít nhất hai bề chứa áp suất 100 ga-lông và có thể là cả các van điều khiển từ xa với một loại dụng cụ đo phản đối nào đó. Tuy nhiên, cho đến lúc này, chưa ai tìm được các bể chứa trên, thậm chí chưa ai xác định được chính xác địa điểm phát tán mặc dù chắc chắn nó chỉ ở đâu đó gần hồ Buena Vista.

Bản báo cáo cũng cho biết trong thời gian gần đây, các nhà máy tinh chế của Nga và Kazakh đã sản xuất khoảng một trăm gram polonium 210 mỗi năm, chủ yếu dùng trong y tế và các ứng dụng giảm tác hại của tĩnh điện. Tối thiểu một lượng gấp ba mươi lần con số trên đã được phát tán ở Orlando, và trên thị trường, giá trị của nó vào khoảng hơn hai tỉ rưỡi đô-la. Và còn chưa tính một lượng lớn hơn chất đồng vị 209 (thứ này thì rẻ hơn) được phát tán đồng thời. Kẻ nào đó ở Nga hẳn đã sản xuất ra một lượng polonium nhiều hơn con số mà bất cứ ai từng biết. Và cho dù họ sản xuất nó theo phương pháp rẻ tiền, và dù nó được đổi chác bằng một thứ hàng hóa nào đó chứ không phải được trả bằng tiền hoặc tiếp quản chính công ty sản xuất thì chắc chắn cũng đã có một lượng tài sản khổng lồ được trao tay vào một thời điểm nào đó.

Dĩ nhiên, những điều này chúng ta cũng sẽ đã biết cả rồi, chỉ là chi tiết thêm một tí thôi. Và hiển nhiên. Bộ Nội an cũng hàng tá các cơ quan tình báo Mỹ và đồng minh khác đều đang lần theo cùng một hướng này. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó không phải việc chúng tôi nên tham gia. Chúng tôi chỉ cần làm tốt hơn họ thôi.

Và chúng ta sẽ làm thế, – tôi nghĩ. Lợi thế của chúng tôi – ngoài món cờ Hiến tế – là chúng tôi đang cố tìm ra tên tội phạm, điều mà tất cả các cơ quan khác không thật lòng quan tâm. Điều duy nhất mà họ thực sự cần là tăng ngân sách dành cho mình. Họ cần tuyển dụng thêm càng nhiều người càng tốt, kéo dài nhiệm vụ càng lâu càng tốt, và quan trọng nhất là tiêu càng nhiều tiền càng tốt. Còn chúng tôi thì tiết kiệm và làm việc hiệu quả. Có lẽ tiến sĩ X đã dùng vàng để trao đổi, – tôi nghĩ. Vàng chưa đúc. Mình phải kiểm tra lại một lượt tất cả các công ty khai khoáng mới được. Thứ gì đó ở châu Phi chẳng hạn. Tôi tắt máy tính – nó nhất quyết đòi kiểm tra dấu mống mắt của tôi rồi mới cho tắt – và vào xem kênh CNN.

Tin tức không được sáng sủa lắm. Con số người thất nghiệp ở Mỹ đã lên tới 25%. Chính phủ chính thức tuyên bố Chúa đang trừng phạt chúng ta vì sự đồi bại và không có đức tin. Các bang như Texas và Kentucky đã ra lệnh im lặng bắt buộc vào mỗi sáng và trưa trong lúc diễn ra các buổi cầu nguyện do tổng thống chủ trì tại sân vườn phía nam Nhà Trắng, và hôm nay, ba mươi triệu người đã tham gia qua truyền hình. Từ tuần trước, quân đội, hải quân và lính thủy đánh bộ đã được hợp nhất thành một lực lượng để chấp hành mọi mệnh lệnh từ cấp chỉ huy, không quân và NASA “cũng sẽ sớm được đưa vào hệ thống”. Khoảng hai trăm ngàn thành viên của các cơ quan vũ trang đã được giải ngũ và vị trí của họ đang được giao cho các nhà thầu tư nhân đảm nhận. Moody’s (Công ty đánh giá tín nhiệm của Mỹ) đã hạ thấp đánh giá trái phiếu kho bạc Mỹ xuống còn mức A (Mức đánh giá cao nhất của Moody là Aaa). Giá vàng giao ngay tăng vọt lên năm ngàn đô la một ounce. Hôm qua, ở thành phố Chester, bang Illinois, tù nhân đã nắm quyền kiểm soát Trung tâm Menard (Nhà tù dành cho phạm nhân nam của bang Illinois), và thay vì đàm phán, đội phản ứng nhanh đã quăng lựu đạn cháy, thiêu trụi các tòa nhà và toàn bộ người trong đó. Cho đến thời điểm này, quyết định trên của cảnh sát đã nhận được 90% ý kiến ủng hộ trên web YouCount-gov. Thành phố Dearborn, bang Michigan hiện đang nằm dưới luật sharia (Luật Hồi giáo). Trên trường quốc tế, hơn hai triệu người tị nạn đã từ Bangladesh đổ về Ấn Độ. Hai người bạn lâu năm Guatemala và Belize lại đang bận rộn với nhau – chuyện này thì tôi biết rồi – bởi thời gian này, hầu như ngày nào người ta cũng nghe thấy tiếng họ nã pháo vào các vị trí nghi ngờ có quân đội của nhau dọc theo đường biên giới. Các kỹ sư sinh học của Zion-Tech, Haifa (thành phố lớn nhất miền bắc Israel) tuyên bố đã gây giống được giống bò đỏ không đốm. Và – tôi thấy tin này gần như là tin vui trong thời điểm này, nhất là với những kẻ lòng dạ sắt đá như tôi – cơn bão Twinkie đang mạnh dần lên ở Cuba.

Cố nhiên, tin vui đối với chúng tôi là với bao nhiêu là lộn xộn như thế này, vụ tai nạn của chiếc Hippo sẽ mất hút dưới tận cùng danh sách của sự quan tâm – những điều tệ hại đăm ra lại có lợi cho chúng tôi. Laurence nói các cơ quan có tên viết tắt với ba chữ cái của Mỹ – và dĩ nhiên là của cả Belize, Guatemala, Mexico và Anh – đang phải giải quyết quá nhiều sự vụ đến mức không thể dành ra quá vài người đề lo việc này. Nhất là khi họ đoán rằng đó có thể chỉ là chuyến buôn lậu ma túy của một tay tỉ phú nào đó đang vội vã rời khỏi Guatemala. Nghe thì có vẻ quái gở, nhưng chúng tôi có thể thoát khỏi vụ này với bàn tay sạch tinh. Thậm chí các công ty bảo hiểm còn phải bồi thường cho chúng tôi về chiếc Hippo cũng nên.

Trước khi trời sáng, tôi quay về phòng nghiên cứu. Marena và Taro đã ở đó. Michael thì hình như vẫn chưa rời khỏi đó. Nghĩa là lão không hề ngủ. Và, không hoàn toàn được chào đón, Laurence Boyle vừa quay về để làm kẻ gây phiền toái xoi mói từng xu đúng vào lúc công việc của chúng tôi đạt được ít thành quả rõ rệt. Bên trong cái khoang găng được chiếu sáng trắng, họ đã mở được sáu trang cuối cùng của một trong ba cuộn giấy. Tôi hơi rùng mình khi thấy những dòng chữ mã hóa còn nguyên vẹn chính là chữ viết tay của tôi. Các trang đang được chụp lại bằng vài chiếc camera gần trên nóc khoang và bức thư cuối cùng của Jed 2 – họ giải quyết theo thứ tự từ dưới lên – đã được giải mã xong. Trong lúc đó, ở đầu khoang bên kia, một trong mấy chiếc bình giống như kiểu bình đựng xác ướp đã được mở ra, những bàn tay xỏ găng đang cậy các mẫu vật ra khỏi mẫu nhựa thông xám xỉn bên trong. Một giờ nữa, chúng sẽ được chuyển tới phòng thí nghiệm Lotos ở Salt Lake để phân tích.

– Anh muốn đọc thư của mình không? – Michael hỏi.

Tôi cố nặn óc ra một câu gì đó mỉa mai để trả lời nhưng cuối cùng chỉ gật đầu. Lão đưa bức thư đã được giãi mã lên màn hình.

Tôi cảm thẩy rất kỳ cục. Tôi có thể hình dung lại giọng nói của chính mình nhưng không thể tưởng tượng được những gì mà bản sao của mình đã làm và chứng kiến. Tôi khó lòng tin được rằng tôi, hay hắn ta, đã làm được đến mức này, và tôi không thể không tự thấy hãnh diện, mặc dù chính bản thân tôi chẳng có công trạng gì trong chiến tích ấy…

[đã giải mã]

CÁC TỪ KHÓA MỚI :

JBNNUIIDSXJWNNQBEOOFLCOPRTXSVQCDFEHJRMR

Jed de Landa

Trên đường tới Đồi Lột Da

(Monte Alban, Oaxaca)

Gửi nhóm Chocula

Phế tích Ix, Alta Verapaz, Guatemala

Thứ tư, ngày 31 tháng 3 năm 664 sau Công nguyên, khoảng 11 giờ trưa.

Gửi Taro, Marena, Michael, Jed 1 và tất cả mọi người.

Bốn mươi tư người chúng tôi, những gì còn sót lại của đội quân, đã qua được vùng ngoại ô Teotihuacán và mười tám mặt trời trước, chúng tôi đã gặp người của Bị Thương 14 tại điểm hẹn trước. 14 đã mất tới gần một nửa quân số và lính trinh sát của ông ta cho biết những người còn lại của thị tộc Báo Sư Tử đã tập hợp lại dưới trướng của Cụt Tay Phải, đang tấn công và tàn sát tất cả những người thuộc các thị tộc hậu duệ Chim Ưng và Rắn Chuông còn kẹt lại trong thung lũng Teotihuacán. Và bây giờ, chúng đang đuổi theo chúng tôi. Vòng tròn của lửa và sự hủy diệt, phần lớn là tự phát, đang từ những đám đổ nát của thủ phủ này lan rộng ra khắp nơi như một hố đất sụt ngày một mở rộng. Chúng tôi đã đi qua các khu làng nơi người dân tự nhịn ăn cho đến chết bởi họ tin rằng một khi thế giới đã không tồn tại thì cũng chẳng có lý do gì để ăn.

Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều người sống. Phần đông đã trở thành vô gia cư hoặc không muốn quay về nhà nữa. Họ gia nhập đoàn chúng tôi, vì thế đoàn lữ hành ngày một đông lên.

Phần lớn những người này không quen chiến trận. Nhưng sáng nay, công nương Koh đã cử khoảng một trăm sứ giả – tôi dùng từ này để chỉ một chức danh kết hợp giữa “người đưa tin”, “người tuyển mộ” và “người truyền giáo” – để nhanh chóng tập hợp các đội chiến binh từ các nhóm người hành hương của Rắn Chuông Sao đang lưu tại các khu vực ở vùng hồ chưa bị đám cháy lan đến. Họ cũng sẽ chuyển lời tới những người đứng đầu của một vài thành phố đã đồng loạt cải sang đạo Rắn Chuông rằng công nương Koh muốn họ đến diện kiến tại Akpaktapec, một thành phố theo đạo Rắn Chuông ở Oaxaca, cách địa điểm này hai ngày đường về phía tây. Chúng tôi sẽ tập hợp quanh mình càng nhiều tín đồ càng tốt để làm tấm đệm và hành quân về phía Đồi Lột Da, nơi thị tộc Mây đã hứa dành cho chúng tôi một nơi ẩn náu với tư cách là đồng minh chống lại nhà Báo Sư Tử. Từ đó, nếu có thể, chúng tôi sẽ đi theo một tuyến đường trên bộ, cách xa con đường mòn quen thuộc, đi về phía đông nam về thành Ix.

Tôi muốn nói rằng cơ hội về được tới Ix của tôi là rất ít. Vì thế, tôi quyết định để hình chữ thập đầu tiên tại đây, hơi sớm một chút, trước khi những điều tồi tệ xảy ra. Tôi vẫn chưa nắm được hết những gì cần biết. Nhưng tôi hy vọng (hiển nhiên) rằng thông tin trong những ghi chép này đủ để các vị tái hiện được môn cờ Hiến tế và các thành phần tạo thành ma túy của trò chơi sẽ tồn tại đủ nguyên vẹn qua nhiều năm để giúp các vị tái hiện được các thành phần hóa học hay thậm chí chỉ là các tế bào vô tính của chúng. Xin nói một câu cũ rích: có lẽ tất cả những việc này cũng bõ công, bất kể sự tình nhìn từ đây có như thế nào. Dù sao cũng xin được thứ lỗi về không khí ảm đạm này… sẽ tiếp tục gửi thêm nếu có thể…

Thân mến,

JDL 2

Xem các kiện hàng gửi kèm.

Tái bút: Jed, cậu có thể cúng cho thần Maximón mấy điếu Pyramide giúp tớ được không? Cảm ơn. Jed 2.

66

– Đây là lúc đốt ruộng, là lúc dọn quang, – tôi lầm rầm bằng tiếng Ch’olan. Tôi lấy một nhúm thuốc lá, nhai nát và xát một ít vào vết thâm ở mé trong đùi.

– Con xin mượn hơi thở của ngày hôm nay, Ox la hun Ok, Ox la uaxac K’ayab, Chó 13, Rùa cạn 18, mặt trời thứ mười của tun thứ ba, unial mười chín,k’atun mười chín của b’ak’tun mười hai, giữa trưa ngày mùng 8 tháng tư theo năm Thiên chúa 2012 của chúng con, kỷ niệm ngày sinh thứ sáu mươi mốt của mẹ con và cách hai trăm năm mươi bảy ngày trước mặt trời cuối cùng của b’ak’tun cuối cùng. Con cầu xin vị thánh của ngày hôm nay, Santa Constantina, con cầu xin thánh Simón, người bạn của chúng con dưới tên Maximón, hãy bảo vệ khoảnh đất này của trái đất.

Tôi đặt mình ngồi vào trung tâm của các thế giới đang chuyển động xoay tròn.

– Quinchapo wa’k’ani, pley saki piley, ­- tôi khấn, – đây là lúc vãi hạt, trồng cây, con xin rải rác các sọ đỏ và sọ trắng.

Tôi kích vào dòng chữ RẢI HẠT. Ba trăm sáu mươi hạt lách tách hiện lên trên màn hình OLED 2,8 triệu pixel chiếm trọn bức tường trong căn phòng tối, biệt lập và trang bị hiện đại, nằm sâu bốn mươi feet dưới sân thi đấu của Hyperbowl ở Stake. LEON lưỡng lự, trầm ngâm suy nghĩ. Tôi duỗi dài người, nằm ngả xuống chiếc ghế dựa lò xo mát-xa mớ toanh, tiện lợi nhưng xấu xí và đắt tiền. Cơn ngứa ran lên dưới cái máy đo huyết áp quấn bên cổ tay trái. Tôi gãi. Nào, chúng ta lại bắt đầu, – tôi nghĩ. Đáng ra tôi phải biết trước rằng mọi sự rốt cuộc cũng sẽ quay lại với cái máy tính. Bởi suy cho cùng, tôi vẫn chỉ là một con khỉ máy móc. Tất cả chúng tôi đều thế. Suốt ngày vất vả ṃ mẫn với những cái mỏ dữ liệu. Mệt mỏi. Đáng ra tôi phải là người được nhìn thấy nó chứ, ý tôi là thế giới cổ của chúng tôi ấy. Đúng thế, đáng ra tôi phải được làm Jed 2 mới phải. Cái thằng khốn ấy thật may mắn. Hắn được nhìn thấy hết. Những món đồ quý báu và các kim tự tháp. Những con gà tây Ocellata và những con mèo rừng màu ngọc lam. Những hẻm núi cắm đầy lông chim…

LEON kêu bíp bíp.

Nó vừa di chuyển một sọ đỏ lên một tun về phía bắc, đến ngày 28 tháng 4 và dán nhãn vị trí đó là k’ak’ilix – tức là một ngày mà mọi chuyện đều có thể xảy ra. Giống như các trò chơi trên trang web Mouse Club. ĐẾN LƯỢT ANH – dòng chữ hiện lên trên cửa sổ.

Hừmm.

Suốt ba tuần nay, chúng tôi đã cài đặt lại LEON để nó có thể hoạt động như một công cụ tìm kiếm. Tức làm ngoài cửa sổ đánh cờ Hiến tế, anh có thể mở thêm các cửa sổ hiển thị các dữ liệu mà công cụ tự học của nó đang theo dõi và anh có thể sử dụng các nước đi của mình để định hướng hoạt động tìm kiếm của nó. Các sinh viên của Taro cũng đã cải tiến giao diện sao cho khi đấu với LEON, chúng tôi có cảm giác giống như chơi với con người hơn. Tuy nhiên, điều khả dĩ nhất LEON có thể làm được chỉ là đi những nước đúng. Nghĩa là nó không thể đi những nước có suy tính sâu xa, thậm chí không thể đi được những nước hay nhất. Chỉ là những nước đúng thôi, những nước mà các bạn có thể gọi là “theo sách vở”, nếu như có sách vở cho môn này. Và vấn đề là, trong một ván chơi ở trình độ cao ở bất cứ môn nào – cờ vua, cờ vây hay thậm chí là Cootie (Cootie: Một trò chơi ghép hình của trẻ em.) – thì nước đi theo sách vở chẳng mấy khi khác nước đi ngu nhiều lắm. Thậm chí đôi khi nó còn là nước đi dẫn đến thua cuộc.

Taro đã thất vọng ra mặt trước sự tình này: không có thuật toán, không có những công thức bí mật, không có thứ gì để ông ta có thể đem dạy cho máy tính và để nó giải quyết mọi vấn đề của con người. Taro muốn một thứ gì đó có tính quyết định hơn. LEON là con đẻ của ông ta. Ông ta muốn cái gói kia phải chứa đựng những giải pháp cho các công thức của ông ta. Ông ta mong muốn đến mức gần như chờ đợi điều đó xảy ra. Nhưng thay vào đó, tất cả những gì chúng tôi nhận được là những mảnh và chiến thuật chơi, cùng năm chiếc bình đựng ma túy, xác cây và con vật. Những thứ đó giúp ích cho LEON không hơn việc đổ cà phê lên ổ cứng của nó. Tôi ra sức giải thích với ông ta rằng chơi cờ Hiến tế không phải một mục tiêu đơn giản nhất mà ông ta có thể nhắm tới, cũng như không có bí quyết chơi đàn xen-lô, nhưng ông ta chẳng có tâm trạng nào mà nghư. Ông ta là một nhà khoa học đơn thuần. Nếu một vấn đề không có cách giải quyết có thể ghi được lên bảng đen thì nó không thuộc phạm vi công việc của ông ta.

Và quả thực, sao chúng tôi lại nghĩ có thể chơi được cờ Hiến tế trên một cái máy tính nhỉ? Trò chơi này được nghĩ ra để làm cặp mắt của bộ óc chứ không phải cặp mắt của một cỗ máy có tính năng mới nào đó chưa được phát minh. Để khiến một chiếc máy tính chơi được trò chơi như con người, anh phải thiết kế sao cho nó sánh ngang một bộ óc. Và ngay cả LEON cũng còn xa mới với được tầm đó. Bất kể một chiếc máy tính lưu trữ được nhiều kiến thức hơn con người đến mức nào, bất kể nó xử lý được thông tin nhanh đến mức nào thì nó cũng chỉ là những con số “0” và “1”.

Hiển nhiên, ngay sau khi chúng tôi đọc hết thông tin về món ma túy và trước khi họ kịp bắt tay vào phân tích chúng, tôi đã định thử nếm ngay từ bình. Và hiển nhiên họ không cho tôi làm vậy.

Tôi không nghĩ họ lại câu nệ quá như thế. Tôi khăng khăng nói rằng chúng tôi nên chứng thực lời của Jed 2, tính toán lượng thuốc anh ta đã dùng và thử một liều tương tự. Nhưng các ông bà tử tế ở phòng thí nghiệm Lotos – trung tâm nghiên cứu thuốc điều trị bện tâm thần của tập đoàn nghiên cứu Warren – muốn kiểm tra chúng trước. Họ cho biết đã đi đến kết luận rằng có hai thành phần hoạt tính trong ma túy của trò chơi, thứ nhất là một chấttryptamine tương tự như chất gây ảo giác bufotenin, và thứ hai là một hợp chất benzamide tương tự như chất ampakine nhân tạo, như CX717 chẳng hạn. Kết hợp với nhau, chúng kích thích mạnh mẽ hoạt động của các tế bào thần kinh tại một vài điểm nhất định trên vỏ não. Đáng lưu ý hơn, các thử nghiệm ban đầu trên sên biển cho thấy “sự gia tăng chưa từng thấy của các chất tiếp xúc”, nghĩa là số lượng các kết nối thần kinh mới cũng như chủng loại và độ dài của chúng tăng lên con số khổng lồ trong suốt thời gian bộ não chịu ảnh hưởng của chất ma túy. Dần dần, theo thời gian, chất thuốc đó sẽ thay đổi hình dạng của bộ não một cách thực sự.

Đến ngày thứ bảy, họ đã tổng hợp đủ thuốc để thử nghiệm trên động vật. Những quan sát ban đầu cho thấy dường như chất ma túy phát huy tác dụng qua nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, nó giúp tăng trí nhớ về địa điểm và cảm giác về phương hướng. Người ta cho lũ sên biển lên bàn xoay thợ gốm trong một căn phòng tối và quay tròn, sau một phút, chúng đã ngừng chạy lòng vòng và bơi thẳng tới góc phía đông, nơi để thức ăn trong cái bể cũ. Chúng tôi theo dõi băng ghi hình những con chuột lội qua các mê cung đổ đầy nước, và đến lần thứ hai, những con vật hạ đẳng đó đã nhớ được lối đi trong mê cung phức tạp nhất mà căn phòng thí nghiệm có đủ chỗ để đựng. Lũ khỉ còn làm được điều phi thường hơn. Con khỉ bình thường nào cũng có thể đi trên dây nhưng những con được dùng ma túy còn đi được trên sợi dây đu đưa trong bóng tối và sau đó, theo mệnh lệnh, nhảy sang sợi dây mà chúng đã đi trên trước đó cả tiếng đồng hồ. Lisuarte nói tác dụng tăng cường khả năng giữ thăng bằng và sức mạnh cơ bắp của chất thuốc này khiến bà ta nhớ đến propranolol, tức là chất giảm hoạt động của tim mà rất nhiều nhạc công của dòng nhạc cổ điển thường dùng trước buổi trình diễn. Trong suốt giai đoạn này, chỉ số IQ tăng từ từ lên trên ngưỡng lệch chuẩn của cá thể đó. Điều này xảy ra ngay cả với những con sên, loài vật tuy cũng có chỉ số thông minh nhưng không con nào lên được tầm Goethe (Goethe: Theo một nghiên cứu về IQ của một số nhân vật nổi tiếng thi hào Goethe đạt chỉ số cao nhất, ở đây ý nói không có con sên nào có chỉ số IQ thực sự cao). Lũ khỉ thì học được hàng tá các ký hiệu bàn tay mới. Chúng chơi được cả trò ghép hình có thể làm khó cả một đứa trẻ năm tuổi. Chúng trình diễn cả một màn tẩu thoát bằng cách cử một con giật chuông báo cháy vào ngày tất cả được đưa đi tắm. Thật là một cảnh tượng như trong phim Bí mật của NIMH.

Nhưng khi giai đoạn kích thích trí tuệ lên tới đỉnh điểm thì chất ma túy lại tác dụng lên các vùng khác kỳ quặc hơn, các con vật thể hiện những kỹ năng không có trong bài kiểm tra IQ. Chẳng hạn như lũ khỉ trở nên quá nhạy cảm với màu sắc. Thông thường, con người chỉ có thể nhớ và phân biệt vài ngàn màu. Những người làm việc trong ngành in vải, ví dụ vậy, có thể nhớ khoảng mười nghìn. Loài khỉ thì chỉ xử lý được khoảng vào trăm. Nhưng sau ba tiếng đồng hồ chịu tác dụng của thuốc, con số đó được nhân lên gấp bốn. Ngoài ra, lũ sên trở nên mẫn cảm hơn rất nhiều với các dao động dưới tốc độ âm thanh và ngay cả với các sóng điện trong môi trường nước quanh chúng hay chỉ chạy qua dưới sàn nơi đặt bể của chúng; những con thuộc loài có vú cũng vậy, tuy ở mức độ nhẹ hơn nhưng khá rõ rệt. Mỗi lần va quệt vào nhau, một tia tĩnh điện cũng có thể làm cho chúng rú lên. Khi tăng liều lượng cũng là lúc các nhân viên phòng thí nghiệm nhận thấy những tác động tiêu cực – nghĩa là ngoài các tác dụng phụ thông thường như chóng mặt, vã mồ hôi và hắt hơi, “ở các mẫu thí nghiệm khỉ Macaca mulatta, hiện tượng gặm móng và nhai lông đã lên tới mức thường xuyên” – báo cáo viết. Nói cách khác, chúng đã bắt đầu gặm móng chân tay, nhai và nuốt lông. Và “ở các mẫu thí nghiệm Aplysia california, liều lượng cao liên tục đã dẫn tới các trường hợp tự ăn thịt nghiêm trọng”. Nghĩa là những con sên biển tự ăn thịt chúng cho đến chết.

Bác sĩ Lisuarte và người của phòng thí nghiệm Lotos rơi vào thế khó xử. Đương nhiên, họ chẳng lạ gì cái thế giới đầy lợi lộc của các chất ma túy kích thích năng lực. Thực tế, chúng tôi đã cho rằng mình vừa vô tình thực hiện các nghiên cứu về dược liệu cổ truyền. Có lẽ một phiên bản có tác dụng nhẹ hơn của món thuốc này sẽ có tương lai sáng sủa trong ngành y dược hiện đại. Nhưng cũng như nhiều công ty có máu mặt khác, tập đoàn Warren cam kết mạnh mẽ với hoạt động chống ma túy đến mức họ gần như thực sự tin vào chuyện đó. Kể cả những tín điều của đạo Mormon cũng không ảnh hưởng nhiều. Về cơ bản, họ cứng nhắc như một con rô-bốt về chuyện này. Wainer nhai oxycontil (Oxycontin: Một loại thuốc chứa ma túy để giảm đau)như ăn kẹo mỗi khi không nốc rượu rum ừng ực. Tony Sie vẫn dùng steroid và androstenedione dù đã bỏ chơi bóng nghiệp dư bốn năm trước còn các thực tập sinh của phòng thí ngiệm thì hút cần sa và dự tiệc thuốc lắc sáu đêm một tuần. Ngay cả Taro cũng dùng Modafinil (Modafinil: Loại thuốc kích thích thần kinh và tăng sự tỉnh táo). Marena đã quay lại với thói quen mỗi ngày một bao. Đám công nhân xây dựng nghiện methamphetamine nặng (Methamphetamine: Một loại ma túy). Con cái của họ hít toluene và ít nhất một nửa trong số các nhân viên theo đạo Mormon nốc vốt-ka và nước tăng lực khi họ nghĩ không ai để ý. Và chắc các bạn nghĩ ở đây người ta có thái độ nghiêm khắc với lối sống tiệc tùng. Nhưng không.

Marena họi điện cho tôi từ Colorado bằng điện thoại di động được cài mật mã mà công ty không biết, bảo tôi rằng cô ta cũng muốn việc nghiên cứu này được mở rộng hơn một chút, nhưng tôi không nên cố tác động và đẩy mình vào nguy cơ bị đá khỏi dự án.

– Boyla và đám người này chẳng qua chỉ là một lũ kế toán, – cô ta nói, – Nhìn chung, họ ham học hỏi chẳng hơn gì một vại kim chi ôi.

– Ừ, – tôi đáp.

– Nhưng khi Lindsay đọc các bản báo cáo, ông ta sẽ vặn vẹo và họ sẽ đổi ý thôi.

Cô ta cũng nói rằng cô ta rất lo lắng về sức khỏe của tôi nếu tôi cứ thử dùng thứ ma túy mà không có ai giám sát. Tôi trả lời rằng cô ta thật đáng mến nhưng cô ta đang chuốc vào người một công việc nặng nhọc không bao giờ kết thúc đấy.

– Anh cứ ở yên đấy là được, – cô ta nói.

Rốt cuộc, đến ngày 10 tháng 3, đã có kết quả thử nghiệm độc tính trên những con lợn lai Yucatán. Chúng khôn ra rất nhiều nhờ món thuốc nhưng cho đến lúc này vẫn chưa có biểu hiện nghiêm trọng gì về sức khỏe. “Về mặt sinh hóa, chúng có hơn năm mươi phần trăm giống người” – đó là lời của Lisuarte. Nghe có vẻ hợp lý vì về mặt cư xử, con người cũng có hơn năm mươi phần trăm giống lợn. Theo suy đoán của tôi, đương nhiên phòng thí nghiệm Lotos đã tiến hành thử nghiệm trên người, có thể là ở Ấn Độ, nhưng họ không muốn bất cứ ai bên ngoài biết được chuyện này. Nhất là một kẻ vô ý thức như tôi. Dù sao, họ cũng nói sẽ bật đèn xanh cho chúng tôi tiếp tục dự án của mình sau một tuần nữa.

Nhưng lời hứa không được thực hiện. Các tờ lịch cứ rơi dần, tiến gần đến ngày Chúa tể 4 mà vẫn chưa ai tiến được thêm bước nào về phía têndoomster. Và bên ngoài lãnh địa nhỏ của chúng tôi, thế giới đang tiếp tục suy đồi.

Cuối cùng, đến ngày 18, người của Lotos cũng gửi đến các thành phần của chất ma túy, mỗi thứ gần nửa lít.

– Tôi đã nói với anh là họ sẽ làm mà, – Lisuarte nói, – họ cũng tận tâm như chúng ta thôi.

Và bà ta có lý. Họ là một công ty, họ không muốn mạo hiểm, họ ghét người da đen, họ ủng hộ đảng Cộng hòa, luôn kè kè khẩu súng, đếm từng xu nhưng tiêu tiền to thì dại và nói không với bất cứ thứ gì, nhưng rốt cuộc, họ vẫn là con người. Họ có gia đình, có các khoản đầu tư, có tham vọng, có như cầu chăm sóc sức khỏe… và như chúng tôi, họ hiểu vấn đề.

Giấy tờ được soạn thảo và ký kết. Các bác sĩ từ trung tâm Salt Lake đến khám cho tôi và (theo tôi đoán) lấp liếm hoặc chịu mọi chỉ trích nếu mọi sự đổ bể. Người ta đặt đủ loại giấy tờ trước mặt tôi và tôi ký. Có lẽ tôi không nên làm thế nhưng lúc ấy chẳng có thời gian mà cân nhắc kỹ lưỡng. Ngày 19, Lisuarte bật đèn xanh cho tôi. Tôi có thể thử ba mươi miligam hỗn hợp ma túy nếu được theo dõi kỹ lưỡng từ ngày chủ nhật. Và khi họ cho tôi dùng thử lần đầu, tôi đã sốc đến mức không thể chơi được. Đủ các triệu chứng như chóng mặt, buồn nốn, mẫn cảm với ánh sáng và tiếng động – như những người mắc chứng đau nửa đầu – bất tỉnh trong vài giây, mạch đập nhanh và hoang tưởng tiền tự sát. Khi bước vào phòng, họ thấy tôi đã tuột xuống chân ghế, và theo Lisuarte, tôi đã cắn chảy máu môi dưới và đang cố rạch bắp chân phải bằng con chuột máy tính. Họ vội vã đưa tôi đến bệnh xá. Tôi bảo họ rằng những triệu chứng đó chẳng có gì là bất thường với tôi, và thực ra, trong những ngày khỏe mạnh bình thường tôi cũng bị như thế vài lần, và tôi chỉ cần uống thêm một liều nữa và tiếp tục làm việc. Nhưng thay vào đó, họ rửa sạch số thuốc khỏi ruột tôi và không cho tôi đến gần phòng thí nghiệm.

Tôi hơi buồn bực. Nghĩa là ngay cả sau khi thuốc đã hết tác dụng và tâm trạng tôi quay lại bình thường thì tôi vẫn hơi buồn bực. Tôi đã lao qua nước, lửa, gió bão và cả phân người để lấy được số thuốc đó – ờ thực ra thì Jed 2 mới là người phải trải qua những chuyện đó nhưng cũng vậy thôi – thế mà bây giờ tôi thậm chí không được dùng nó. Lisuarte phỏng đoán rằng thành phần có nồng độ alkaloid cao đã gây phản ứng với các loại thuốc khác mà tôi đang dùng. Cụ thể là nó ngăn chặn việc hấp thụ lại axit glutamic, dẫn tới lượng nitrogen tăng quá cao, kích thích độc tố, hình thành ý nghĩ tự hủy hoại bản thân và hàng đống tác dụng không mong muốn khác nữa. Trong một tuần tiếp theo, bà ta thay thế các đơn thuốc điều chỉnh hành vi quen thuộc đáng tin cậy của tôi bằng một mớ hổ lốn các loại thuốc mới hơn và khó chịu hơn. Khi nhìn qua danh sách liều lượng, nó quá phức tạp so với khả năng hiểu của tôi, vì vậy, tôi gửi nó tới chỗ ông bác sĩ vẫn điều trị cho tôi ở Miami. Ông ta nói đơn thuốc này giống như “dùng sức gỗ phá thành mà đóng một cái đinh hai xu”, nhưng tôi muốn tỏ ra là người xuề xòa nên cứ chấp nhận dùng. Thật đáng kinh ngạc, những thứ thuốc mới lại đâm ra có tác dụng. Chỉ vài ngày sau, chúng tôi đã cho kết quả mong muốn: Dường như chẳng còn lại mấy phần của thằng Jed trước kia. Thay vì một kẻ luôn lo âu, thích sống ẩn dật và thù địch với thiên hạ, bây giờ còn có một người khác, lạc quan một cách thận trọng và khá ôn tồn tên là Jed. Thực tế, con người mới của tôi gần như điềm tĩnh. Ví dụ – chỉ là ví dụ thôi – Marena đã về Mỹ từ ngày mùng 10 để thăm Max và cô ta nói sẽ quay về sau một tuần, nhưng bây giờ, đã gần một tháng rồi mà vẫn chẳng thấy cô ta đâu. Cô ta giải thích rằng việc đi lại hiện thời không an toàn lắm. Và đúng là mọi sự đang rối tung lên một cách đáng ngại. Thiên hạ đang bỏ chạy khỏi một vài thành phố và đổ dồn về các thành phố khác. Phải chờ mười tiếng đồng hồ mới qua được các trạm kiểm soát hải quan. Các hãng hàng không thì tích trữ nhiên liệu máy bay. Hầu hết các sân bay lớn đã biến một phần ba số ga-ra đậu máy bay thành trại cách ly bắt buộc. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy nó có phần lý do lý trấu. Nếu Marena để đám lưu manh của Warren ra tay, cô ta đã về đến đây rồi. Thực sự, điều này có vẻ không giống với tính cách của cô ta: vắng mặt trong lúc tất cả những người còn lại đang đâm đầu vào dự án của mình. Có lẽ cô ta biết điều gì đó mà tôi không biết. Có lẽ cô ta không chịu đựng được việc phải trông thấy tôi nữa. hay có khi cô ta chỉ không muốn làm gián đoạn việc học hành của Max. Chúng tôi gần như đã chuyển đến sống cùng nhau, nếu các bạn coi việc ngủ chung trong phòng ngủ tập thể của một căn nhà tiền chế là sống cùng nhau, và tôi tưởng chúng tôi đã khá thân thiết, nhưng khi cô ta lên máy bay, thì tôi không còn chắc điều đó nữa. Cứ như trước kia, hẳn tôi đã bắt đầu gầm gào, đập phá, đáp máy bay đến tận nơi và hổn hển bám theo đuôi cô ta như một con chó nhút nhát. Nhưng bây giờ, khi nghĩ về cô ta, tôi chỉ hơi buồn bực một giây rồi dứt khoát quay lại với công việc, như những người bình thường khác, ngoan ngoãn chấp nhận khẩu phần thất vọng mà anh ta phải nhận mỗi ngày. Còn nữa. Không Đời Nào vẫn chưa thấy đâu. Ban đầu, tôi phát hoảng lên vì lo sợ cho cậu ta và còn cố quay lại tìm, nhưng bây giờ tôi chờ đợi một cách khá bình tĩnh để xem chuyện gì sẽ xảy ra. Có lẽ cậu ta đã bị hút vào một cái hố đen như lúc trước.

Ngoài ra, tôi cũng không chắc chắn về tư cách trước pháp luật của mình, ít nhất sáu cơ quan khác nhau vẫn đang điều tra về Vụ Tai Nạn Của Chiếc Hippo – hừm, một cái tựa đề hay ho cho cuốn tiểu thuyết mới xuất bản sau khi tác giả qua đời của Robert Ludium đây – và rốt cuộc họ cũng lần ra được mối liên hệ với ES, điều đó có nghĩa là tất cả số còn lại cuối cùng cũng có thể bị liên đới. Và tệ hại hơn nữa, họ đã cho Sic và một vài thực tập sinh khác thử món ma túy và nó có tác dụng khá tốt với họ. Sic ðang nghiên cứu các ghi chép của Jed 2 và ðýợc chõi trên phiên bản mới của cờ Hiến tế; thế rồi, với “chớp máu”, hắn đã vượt tôi một chút. Cứ như lúc trước, chắc tôi đã phát rồ lên vì ghen tị, mặc xác doomster với chả doomster. Nhưng bây giờ, tôi chỉ cặm cụi làm việc mình.

Cuộc đọ sức lần hai với món thuốc diễn ra tốt đẹp hơn. Tôi chơi được hai ván với một liều thuốc và chơi khá tốt. Đến liều thứ năm, tôi chơi với bốn viên đã ngon lành như với hai viên. Tôi đề nghị tăng liều lượng. Lisuarte nói không. Chín ngày trước, tôi đã hoàn thành một ván chơi với năm viên đá và bây giờ tôi đang tiến bộ với sáu viên. Đến hôm qua, tôi thậm chí đã thoáng nhìn thấy thế giới hỗn độn của bảy viên. Nhưng như tôi đã nói, chơi với bảy viên không chỉ khó gấp đôi sáu viên, cũng không phải chỉ khó gấp bảy hay bốn mươi chín lần, mà là 7!, tức là 5,040 lần. Vì vậy, rất thực tế, tôi không thể tưởng tượng được với tốc độ như thế này mà tôi có thể lên được đến trình chơi với tám viên chứ đừng nói là chín, suốt đời cũng chẳng được chứ đừng nói đến chuyện vài tháng. Đôi khi, trong lúc đọc các ghi chép của Jed 2 về những gì mà cái bà công nương Koh đó làm được, không chỉ chơi với chín viên đá mà còn dùng động vật sống làm quân cờ, rồi lại làm cái khỉ gì đó với cái mạng nhện, tôi gần như nghĩ rằng hắn bốc phét. Chỉ có điều, hắn làm thế để làm gì? Hay đúng hơn, tôi làm thế để làm gì?

Ngày 22, Laurence nói ông ta – tức là Lindsay – muốn tôi tìm hiểu về vụ Disney World. Tôi đáp rằng tôi đã có kế hoạch tiến thẳng tới chỗ tên doomstervà cầu cứu đến Taro và Maurena. Chúng tôi quyết định rằng tôi sẽ dành ra hai ngày để tìm tên giáo sư X. Nếu chúng tôi giao nộp được hắn – họ nói – thì chúng tôi sẽ ghi điểm với DHS. Sau đó, mọi điều chúng tôi nói về ngày Chúa tể 4 sẽ được họ coi là chuyện nghiêm túc, bất kể nó có kỳ quái đến đâu. Nghe có vẻ hợp lý, mặc dù tôi chắc chắn còn có điều gì đó sau chuyện này. Tuy nhiên, tôi đã xem hết những ghi chép của Jed 2 về giáo sư X qua ván cờ của công nương Koh, và đúng là chúng cũng gợi cho tôi một vài liên tưởng. Nhưng khi đọc lại một lần nữa, tôi thấy hơi bực mình với hắn. Thứ nhất, chỉ vỏn vẹn có bốn mươi ngàn từ, không nhiều nhặn gì đối với việc ghi chép tỉ mỉ từng chi tiết nhỏ bởi biết đâu sau này những chi tiết đó lại trở nên có giá trị. Thứ hai là văn vẻ quá. Cái bài văn xuôi này hoa mỹ một cách ngớ ngẩn khiến tôi phát khó chịu. Mặc dù tôi công nhận rằng hắn/ hoặc tôi đã phải làm việc trong những điều kiện khó khăn, nhưng… hừ, người ta vẫn thường bực bội với bản thân mình, ngay cả khi cái bản thân đó đã bị tách ra làm đôi. Gì thì gì, tôi vẫn đọc đi đọc lại chi tiết về ván cờ liên quan đến vụ kinh hoàng ở Disney World, về việc hắn – hay chúng ta cứ gọi là tôi đi – đã có linh tính mạnh mẽ rằng giáo sư X là kẻ nào đó mà tôi biết rất rõ tên nhưng chưa từng gặp mặt, kẻ nào đó vẫn còn sống, kẻ nào đó đã từng đi khắp nơi, có thể là một người mà chúng tôi đã bỏ qua, hay có thể là người mà tôi không tính đến vì quá hiển nhiên. Và Jed 2 nói rằng hắn là người “đã một lần nửa lộ diện ngoài ánh sáng nhưng giờ ở trong bóng tối”.

Hừ.

Ngày hôm đó, tôi đến chỗ làm hơi muộn và đến trưa mới bắt đầu rải nắm hạt đầu tiên. Tôi thử kết hợp ván cờ với các công cụ tìm kiếm của LEON. Các hợp đồng bí mật – tôi nhẩm trong đầu. Các ngân hàng ở Cayman. Các công thức sống xa xỉ hơn mức lương của mình. Máy bay, du thuyền, xe hơi xịn xuất hiện tại các sân sau nơi chúng đáng ra không việc gì phải tới. Thắng cờ bạc. Các bà vợ bất thình lình được thừa hưởng số tiền gấp hàng trăm lần con số người ta nghĩ họ có thể nhận. Đồ cổ, tác phẩm nghệ thuật, các món trang sức cổ với những viên đá quý mới. Gì cũng được. Cố lên. Hãy lần theo các đồng đô la…

Mẹ kiếp. Vào ngõ cụt rồi.

Tôi đi lại một lần nữa, sàng lọc một khối dữ liệu khổng lồ qua một khối dữ liệu khổng lồ khác rồi đuổi theo dấu vết của các đồng đô la. Cố lên. Tiếp tục đi. Phân vân. Phân vân. Đi tiếp. Chắc chắn chỉ có một kẻ chủ mưu, – tôi nghĩ. Toàn bộ sự việc đó kín kẽ đến mức không thể do nhiều kẻ cùng nghĩ ra được. Và xét theo khía cạnh kẻ nào được lợi thì… hừ, khá dễ đoán. Tất cả nhà thầu quân sự trên thế giới đều được lợi. Cứ cho thủ phạm là một trong số đó. Vậy đó là kẻ nào? Cổ phần của công ty nào tăng giá nhiều nhất? Hoặc nhiều thứ hai? Cố nghĩ đi nào. Giả sử đó là công ty A. Nhưng công ty B lại sở hữu phần lớn cổ phần của công ty A. Mà có thể một công ty C nào đó mới là kẻ thực sự hưởng lợi vì họ sắp sửa được công ty B mua lại toàn bộ. Hay là công ty D, kẻ đã thỏa thuận mua lại tất cả các công ty trên. Đường này. Đường kia. Đường này. Đường kia. Những kẻ lắm tiền. Hàng chuỗi nguyên nhân. Hàng chuỗi hậu quả. Những con búp bê Nga lồng trong những con búp bê Nga. Những nhà máy búp bê Nga chất đầy búp bê Thái. Rối tinh hết cả lên. Mỗi mắt xích lại kéo theo một chuỗi liên kết vô giá trị…

Hừmm.

Chắc chắn phải có tiền dính vào vụ này, và nó đang xoay tít quanh thứ gì đó, một hình dáng lờ mờ… một cái đầu, có lẽ thế… và tôi gần như thấy nó qua cảm giác, nghĩa là không thực sự có hình ảnh nào hiện ra, nhưng tôi có cảm giác về sự căm ghét, không hẳn vì chính cái hình dáng đó, mà…

Phải rồi. Sự căm ghét từ phía những người khác.

Hắn là kẻ bị người đời ruồng bỏ.

Nào. Nghĩ tiếp đi.

Kẻ nào đó giàu có, đầy quyền lực và chẳng được ai ưa. Kẻ nào đó bị chính người của mình ghê tởm. Kẻ nào đó từng bị tẩn tả tơi trên sân chơi. Kẻ nào đó có khuôn mặt méo mó. Kẻ nào đó xác thực mối nghi ngờ tồi tệ nhất của tôi. Kẻ nào đó vẫn được coi là con quỷ thực sự trong mắt hầu hết mọi người. Một lãnh tụ Hồi giáo lưu vong chăng? Cái gã Myanmar này phải không nhỉ? Không, không phải. Mẹ kiếp, chẳng lẽ mới trung niên mà đầu óc mình đã ngu đi rồi.

Có lẽ tôi không thấy gì là do tôi kỳ vọng quá nhiều. Có lẽ tôi đã quá xem nhẹ nó, như kiểu anh lục lọi khắp nơi để tìm cái chìa khóa xe sau khi đã kiểm tra hết các túi quần túi áo, và sau khi đã lục tung nhà cửa lên, anh lại phát hiện ra nó nằm trong túi bởi trong mười giây tìm kiếm đầu tiên anh đã nhầm nó là chìa khóa nhà chứ không phải chìa khóa cửa, và thế là đủ để… hừm, các bạn hiểu ý tôi rồi đấy. Được rồi. Tiếp tục đi. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Một chuỗi sự kiện. Hàng chuỗi, hàng chuỗi dữ kiện. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. LEON chuyển…

Oa. Đây rồi.

Mười tám tỉ euro. Và, đúng thế, chỉ một lần giao dịch. Các mảnh ghép miễn cưỡng vào vị trí như những cái lẫy của một ổ khóa cũ han rỉ. Cánh cửa kêu lên rin rít, mở ra…

Không phải một người. Một công ty.

Tóm được mày rồi nhé.

67

Tôi có phần hy vọng rằng DHS và tất cả các cơ quan điều tra khác đã được hối lộ đủ tươm tất và rằng sẽ không có điều gì xảy ra sau khi chúng tôi chỉ ra thủ phạm, ngoài họ, đang cố sát chúng tôi. Nhưng xem ra chính phủ vẫn chưa hoàn toàn hợp nhất thành một khối bởi, thật đáng kinh ngạc, sáng ngày 28, FBI đã tiến hành khám xét đồng thời các văn phòng của Halliburton ở Houston và Baskerfield, tòa cao ốc KBR ở hạt Harris, mười hai văn phòng và một trăm mười máy chủ thuộc sở hữu của Dyn-Corp và các công ty vỏ do tập đoàn Carlisle điều hành. 243 người bị bắt. Theo lời Laurence, người đã hóng tin từ Lindsay và ông này chắc chắn đã nghe được chuyện từ một nhân vật nào đó trong cuộc hoặc từ Chúa, trong bốn cuộc khám xét, người ta đã tìm thấy các tài liệu liên quan đến plutonium dưới dạng phun xịt, ngoài ra, trong một máy chủ còn lưu một bản ghi nhớ trong đó nói rằng việc tập trung hóa các lực lượng quân sự là “ưu tiên hàng đầu của chúng ta”. Tôi đoán rằng các mắt xích của việc hối lộ sẽ khá tệ hại khi người ta tập hợp đủ các chi tiết. Nói ngắn gọn, những kẻ này đã sử dụng hệ thống hawala, nghĩa là tất cả những người tham gia đều là thành viên của một phe cánh Hồi giáo nào đó mà mọi người đều tin tưởng nhau và không ai viết ra bất kỳ điều gì. Không có khoản tiền mặt nào được gửi đến bất cứ đâu. Nhiều năm trước – cụ thể là năm 2006 – vài chủ khách sạn ở Dubai đã thuê mấy nhà thầu đóng trụ sở ở Moscow xây một số đường cao tốc và đường băng riêng với cái giá hơi cao một chút. Các nhà thầu này dùng tiền để trả nợ cho một công ty khác – có lẽ là một trong các công ty đã sáp nhập với Lukoil và được thừa hưởng lượng polonium 210 không có trong sổ sách từ công ty sản xuất ban đầu. Sau đó, người của tập đoàn Carlisle lại bán cho chuỗi khách sạn một vài công trình xây dựng ở Jordan và Lebanon với giá hơi rẻ một chút. Và hoạt động này cứ diễn ra hàng tá các thương vụ giao dịch qua máy tính. Và hẳn các bạn nghĩ với cách thức như vậy, họ đã giấu nhẹm được mọi chuyện dưới tấm thảm Ba Tư. Thế nhưng, mười tám tỉ dù gì vẫn là con số lớn, ngay cả vào thời buổi này, và phần lớn trong số đó đang nằm tại một vài tài khoản ở đâu đó. Với luật ngân hàng mới và các công cụ tìm kiếm được cải tiến, ngày càng dễ tìm ra các khoản tiền gửi khớp với con số ước đoán của khoản tiền mất tích. Một khi LEON và các “đồng nghiệp” ở DHS biết phải tìm kiếm thứ gì, chúng chỉ việc sàng lọc các số liệu cho đến khi tìm ra hai mô hình – có thể hình dung giống như hai dấu vân tay – đủ trùng khớp để thuyết phục bồi thẩm đoàn.

Tuy thế, ho vẫn chưa xin được lệnh bắt Cheney – hắn đang chỉ bị coi là “đối tượng tình nghi” – và, như thế có thể đoán trước, hắn đã được bảo mật tin tức nội bộ và không ai còn tìm ra hắn được nữa.

Không có khả năng tìm được thật – tôi nghĩ. Con mèo ấy có nhiều chỗ ẩn náu không được tiết lộ hơn cả Chương trình Tên lửa phòng thủ Atlas. Cho dù chúng tôi dành toàn bộ thời gian để tìm hắn thì chúng tôi cũng chỉ việc chuyển hắn từ nơi này đến nơi khác và chúng tôi sẽ luôn đến chậm một bước. Ừ thôi, tôi đã làm xong việc của mình. Nó không hoàn toàn như ý, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra như ý cả. Dù sao, rất có thể sau này mọi chuyện sẽ tiếp tục sáng tỏ. Sẽ có thêm nhiều người bị bắt và biết đâu kẻ nào đó sẽ bán rẻ hắn. Cho đến lúc này, moi tin tức trên phương tiện truyền thông về vụ bắt giữ vẫn chỉ là tin nghe hơi nồi chõ, nhưng nghe đâu thông tin thật sẽ được tiết lộ trong tuần này.

Hoặc chính mình sẽ chỉ điểm, – tôi nghĩ. Ngay khi mình được rảnh với những vấn đề cấp thiết hơn.

Tình hình thế giới thì mỗi ngày một tệ hại hơn. Bangladesh gần như không còn điện, thức ăn, nước uống và luật pháp. Lưỡi Gươm của Thánh Allah(Lưỡi Gươm của Thánh Allah : Danh hiệu vinh dự dành cho các chiến binh hồi giáo) đang tấn công các căn cứ quân sự của Mỹ ở Pakistan.. Cục Quản lý Tình huống Khẩn cấp Liên bang cho biết họ đã ước tính sai con số nạn nhân mắc bệnh giai đoạn cuối ở Florida và rằng trong vài năm tới, số nạn nhân tử vong dự tính sẽ lên tới sáu mươi ngàn, đưa tổng số thiệt hại về người của vụ Kinh Hoàng ở Disney World lên hơn một trăm ngàn. Có thể là 124.030 – tôi nghĩ – cộng trừ một tí. Không còn đủ phương tiện để chăm sóc toàn bộ số nạn nhân này ở Mỹ. Vì vậy, các ca có tiến triển tốt hơn được đưa ra nước ngoài cho dù bang Floria đã bắt đầu xây dựng một bệnh viện lớn và hiện đại nhất thế giới. Tính tới thời điểm này, đã có mười bốn vụ báo động tương tự như ở Orlando tại các thành phố lớn, nhưng tất cả chỉ là hoảng báo, chẳng có polonium nào hết nhưng việc di tản tốn mất hàng tỉ. Hai ngày trước, tám mươi người đã thiệt mạng trong một vụ đánh bom tự sát ở DeKalb, bang Illinois. Như rất nhiều vụ đánh bom kiểu mới khác, vụ ở DeKalb được chia thành hai giai đoạn, nghĩa là trước tiên, một quả bom lớn phá sập một căn nhà tập thể và thủ phạm theo dõi toàn bộ qua ống nhòm, xong xuôi, hắn bèn tự sát bằng một chất nổ nào đó khoảng bằng quả lựu đạn cầm tay. Các điều tra viên hầu như chắc chắn đó là một vụ mà họ gọi là “không liên kết”, tức là nó không liên quan đến tư tưởng gì cả mà chỉ là một phần của xu hướng đánh bom tự sát đang ngày một phổ biến giữa những người bình thường, đơn giản là quá chán sống và muốn đưa theo mình càng nhiều bạn cùng lớp, đồng nghiệp, cảnh sát càng tốt, những kẻ đó, vài năm trước đây, còn bằng lòng với một nắm người mà họ có thể bắn trước khi tự sát. Và tồi tệ hơn cả, theo những gì tìm hiểu đước qua cờ Hiến tế. tên dooomster vẫn đang tiếp tục lên kế hoạch của hắn.

Vào ngày cuối cùng của tháng 3, các công cụ tính toán xác xuất của LEON đã chỉ ra rằng thế giới – nói rất chung chung thôi – đã rơi vào tình trạng khủng hoảng thường xuyên. Nghĩa là lịch sử loài người đang ở thời điểm mà bất cứ một động tĩnh nhỏ nào cũng có thể châm ngòi cho một vụ lở đất san phẳng cả đụn cát. Về những bước tiến của tên dooomster, LEON ám chỉ rằng ngay cả khi chúng ta chỉ ra và ngăn chặn được tên doomster thứ nhất (vẫn chỉ là giả thiết thôi) thì chẳng mấy chốc sẽ lại xuất hiện một kẻ thứ hai như hắn. Và sẽ còn nữa, với tần suất ngày một cao, có thể là cứ hai hoặc ba năm một tên, một thời gian sau sẽ là một tháng một tên, rồi mỗi ngày một tên, và cứ thế đến mức không thể ngăn ngừa được nữa. Nói tiếp đến vấn đề đó, ngay cả khi hành động của tên dooomster đầu tiên không thành công một trăm phần trăm – ngay cả khi nó ảnh hưởng đến một lục địa, ví dụ thế – thì một “sự kiện gây tổn thất” như thế cũng “đủ để làm thoái hóa hoạt động của mọi xã hội đến mức chúng sẽ vô cùng dễ bị tổn thương trước những căng thẳng tiếp theo”. Hay theo cách nói của Ashley 2, hệ miễn dịch của thế giới đang bị tổn thương nghiêm trọng và một cơn cảm lạnh cũng có thể dẫn đến tử vong.

Tôi cứ nói mãi rằng chúng tôi cần tăng liều lượng. Lisuarte thì cứ chần chừ. Khoảng ngày mùng 4 tháng 4, tôi bắt đầu có cảm giác rằng hình như chúng tôi chậm chân. Chỉ cảm giác thôi, nhưng tôi vẫn không thích cái ngày mà LEON đánh dấu: ngày 28 tháng 4. Đây không phải lần đầu tiên nó xuất hiện. Và cứ mỗi lần như thế, tôi lại nhìn thấy một quầng xám xịt vây quanh nó. Và không chỉ vì nó là ngày có tiền lệ xảy ra những điều không hay.

Cái ngày này cho tôi cảm giác nó là thời điểm mà từ khi đó trở đi mọi chuyện sẽ tiếp diễn không thể ngăn lại được nữa. Có lẽ tên doomster sắp dùng một loại vi-rút nào đó được hẹn giờ để các triệu chứng được bộc phát đúng vào ngày Chúa tể 4 và chuẩn bị gieo rắc vào ngày hai tám. Hay cũng có thể là một quả bom thông thường hay một phản ứng dây chuyền nào đó được châm ngòi vào đúng ngày đó. Dù gì đi nữa thì tôi cũng cảm thấy giờ 0 của chúng tôi đã bắt đầu từ ngay lúc này, thậm chí có khi là từ hôm qua rồi. Đã đến lúc phải hành động quyết liệt.

Thật dễ dàng khi muốn ăn trộm thứ gì đó của một người vốn tin tưởng anh. Lừa bác sĩ Lisuarte thì khó. Nhưng Taro cũng được quyền tiếp cận tủ thuốc và nhân viên phòng thí nghiệm của ông ta chẳng phải đội thủy thủ kỉ luật nhất thế giới. Và lúc này, tôi và Asley 2 đang… Ờ… chúng tôi đang làm tí việc nho nhỏ, loại việc xảy ra khi Marena vắng mặt, chồng của Asley 2 bị kẹt ở Bắc Kinh và mọi chuyện đang ập đến với chúng tôi như trong phim Bình minh của cái chết. Nó đại loại là một tý giải trí tiện thể. A2 không phải kiểu người thu hút được sự chú ý của người khác, nhưng thực sự, nếu anh cởi bỏ cặp kính và chiếc áo choàng trắng cho cô ta rồi đưa vào một căn phòng tranh tối tranh sáng thì cô ta có thể thành bản sao ục ịch hơn một tí của Chương Tử Di. Cô ta đang thử học chơi cờ Hiến tế – gần như là người chơi tồi nhất ở đây – và tôi đang dạy cô ta vài bài đặc biệt và được trả công. Cũng không có gì to tát lắm, chỉ là cô ta để dành cho tôi một phần nhỏ trong phần ma túy của mình. Đến hôm nay, tôi đã gom được khoảng 480 miligam – thành phần gây ảo giác về không gian lại ở dạng lỏng nên được đựng trong các lọ dung dịch 40 miligam và tôi đã tích được 300, gấp mười lần liều lượng chuẩn của tôi, vào một cái ống trước dùng để chứa helium. Không có máy quay trong phòng biệt lập – chí ít là tôi không thấy cái nào và dù gì ở đây người ta cũng không quá cứng nhắc. Tôi bóc lớp băng dính dán cái ống nhỏ bằng thép dưới nách, luồn nó qua chun quần xuống mé trong đùi phải và vặn nút. Một tiếng động nhỏ phát ra như một tiếng vặn từ từ nắp một chai Shasta lạnh, một cảm giác như có miếng nước đá đang hình thành trong tĩnh mạch chủ dưới da rồi tan mất.

Nếu tôi tính toán đúng thì liều thuốc này, sau hai mươi phút nữa sẽ đưa tôi đến ngưỡng khoảng bằng một phần năm lượng thuốc mà chúng tôi tính rằng Koh đã dùng trong ván cờ cuối cùng với Jed 2. Cố nhiên, bà ta đã có cả đời để tăng khả năng chịu thuốc. Người của phòng thí nghiệm Lotos nói lượng thuốc ngần này có thể gây ra chết hoặc làm nổ tung hồi hải mã trong não tôi. Nhưng họ là một đám người chuyên hù dọa người khác. Mà đằng nào, nếu tôi bị tai biến, người của Lisuarte sẽ lao vào, cho tôi uống thuốc và chăm sóc cho tôi trở lại bình thường. Thời buổi này người ta có thể làm bất cứ thứ gì. Phải vậy không? Dù sao, chúng ta cũng có nhiều chuyện quan trọng hõn phải lýu tâm. Tập trung vào ði.

Tôi di chuyển quân đầu tiên trong số chín quân đến ngày 28 tháng 4 và thay thế hạt của LEON. Nhận lấy này, đồ óc thủy tinh. Ô cửa sổ của nó hiện lên dòng chữ ĐANG SUY NGHĨ. Tôi đứng ở vị trí mới và tìm quanh. Nói là “tìm” thì không đúng lắm vì lúc này, khi cảm thấy chớp máu sôi lên trong động mạch, tôi đang thực sự nhìn thấy, nếu có thể gọi như vậy, với những cái rùng mình và giật khe khẽ, tưởng như mọi nguyên tử trong cơ thể tôi đều có một hạt tương ứng trên bàn cờ. Có lẽ nó giống như cách những người mù với máy quay gắn vào trong não và điện cực gắn trong yết hầu có thể nhìn bằng lưỡi…

BÍP.

LEON di chuyển hai bước về phía trung tâm bàn cờ.

Hừm.

Tôi cũng di chuyển sọ của mình lên phía trước. Tôi thấy như đang leo cầu thang, thấy không gian vừa giãn nở ra lại thu hẹp lại. Rất khó giải thích, nhưng nó giống như cảm giác của một người đã sống cả đời ở một thành phố nhỏ, biết mọi đường lối đi lại nhưng chưa từng nhìn thấy chúng trên bản đồ, rồi một hôm, anh ta leo lên một tháp truyền hình cao vừa được dựng lên ở trung tâm thành phố, và thế là, lần đầu tiên anh ta được nhìn xuống thành phố từ trên cao. Sau vài giây, anh ta hiểu ra nhiều điều mà trước đây anh thậm chí không biết có chúng ở trên đời để mà hiểu. Anh ta sẽ thấy những nơi lúc trước tưởng như xa cách nhau nay xích lại gần, những con phố mà anh ta cho là nằm vuông góc nhau thực ra lại cắt xiên lộn xộn, các khu công viên mà anh ta cho là vuông vắn lại có hình tứ giác, không đều, những tòa nhà quen thuộc tưởng là to bỗng trở lên nhỏ hơn cả những tòa nhà ít quen thuộc hơn mà trước đây tưởng là nhỏ; trình tự nhận biết trở nên hoàn toàn khác lạ, hoàn toàn mới mẻ, thứ mà anh không thể có được nếu chỉ sống ở một nơi, dù là hàng trăm kiếp.

Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ cảm giác này có vẻ như hay ho, thậm chí vui vẻ. Nhưng thực tế thì không, nó chỉ đáng sợ thôi. Nó đặc biệt đáng sợ vào lúc này, dĩ nhiên. Nhưng lúc nào nó cung đáng sợ. Sự sợ hãi của anh tăng lên cùng khả năng nhận biết. Và nó phải như vậy.

Khi tôi đọc xong ghi chép về các con vật của công nương Koh, dường như nó không khiến tôi kinh ngạc như Jed 2. Thực ra, tôi luôn dùng chính mình làm con khỉ. Nghĩa là, để thực sự điều khiển được quân cờ, tức là các sọ, anh phải có sự sợ hãi trong mình. Ngay cả khi chơi cho một người mà anh chẳng mấy quan tâm, anh vẫn phải cảm nhận được sự sợ hãi. Anh cần phải cảnh giác nhìn quanh như con thú đang bị săn đuổi, phải thấy cái bóng nào cũng giống con dã thú săn mồi. Và khi khả năng nhận biết của anh càng mở rộng, thay vì mạnh mẽ hơn, anh thấy sợ hãi hơn. Nó trở thành nỗi sợ không chỉ cho bản thân mà cho các con vật cùng cảnh bị săn đuổi, cho bầy đàn mà lúc này anh đang thấy tất cả vây quanh mình, đông không kể xiết. Thay vì tìm đường thoát, anh lại tính xem có bao nhiêu kẻ cùng cảnh ngộ quanh mình và nơi ẩn náu an toàn còn cách bao xa. Anh bắt đầu nhận thấy ý thức của mình dễ lung lay đến mức nào, và càng lên các bậc cao hơn, anh càng cảm thấy nó mong manh. Anh bắt đầu thấy rõ hơn hiện tại, quá khứ, thậm chí lờ mờ một chút tương lai, rồi thêm nhiều khả năng sẽ có thể xảy ra, thêm nhiều khả năng đã có thể xảy ra – ví dụ như một nghìn triệu khả năng anh không được sinh ra trên đời chẳng hạn – và tiếp đến là những hiện tại không thật, những tương lai không tồn tại và những thế giới không thực, các vũ trụ nơi ánh sáng đi với tốc độ chậm và cục bộ, lực hấp dẫn thì lớn, tầm ảnh hưởng xa, nơi hai cộng một bằng một, hay thậm chí hai cộng hai bằng một chùm nho, ví dụ thế. Và nó không chỉ khiến người ta tò mò. Nó khiến người ta phát khiếp.

Nhưng nếu anh vượt qua được cảm giác hoa mày chóng mặt trước tất cả những điều đó, anh sẽ bắt đầu thấy một vài hình thù. Tôi thu nhỏ của sổ bàn cờ trên màn hình tường và liếc sang hàng loạt thông tin chạy dọc màn hình. Lúc này, LEON đang lọc các thông tin liên quan đến những người có cùng tên và kiểm tra xem chúng có được đặt cho đúng người hay không. Và khi nói “thông tin”, ý tôi là tất cả các thông tin: nghề nghiệp, phả hệ, các mối quen biết đời thực và qua mạng, hồ sơ tín dụng, tình hình mua sắm, học bạ, ngày sinh, ảnh, các sở thích chắc chắn và suy ra, các trang web đã xem, số cặp gen đơn bội ước tính, tham khảo chéo, y bạ, cả một thác sự kiện, ngôn ngữ, của cả con người lẫn máy tính. Tôi đang nhìn thấy thứ gần nhất những gì mà Chúa nhìn thấy, thậm chí gần hơn cả những gì Google nhìn thấy bởi mọi thứ mà Google tìm kiếm đều phụ thuộc vào những gì mà những kẻ không được thông minh lắm tìm kiếm. Việc tìm kiếm thông tin có định hướng thật sự phải có tính chọn lọc hơn rất nhiều. Anh cần phải tập trung. Và ý tôi không phải sự tập trung vào từng chi tiết nhỏ như tìm kiếm từ khóa. Nó giống việc xem tranh ảo hơn, khi anh tập trung nhìn sâu xuống một vài feetdưới bề mặt tờ giấy và nếu không bị phân tán bởi những đường ngoằn nghoèo vô nghĩa, anh sẽ nhìn thấy hình vẽ mà bức tranh thể hiện – hay phải gọi chính xác hơn là không gian mà bức tranh thể hiện bởi thực ra anh chỉ nhìn thấy không gian, nghĩa là nếu chỉ dùng một mắt, anh sẽ chẳng thấy gì hết – nếu cứ tập trung vào hình đó, nó sẽ dần hình thành hình khối rõ rệt, lớn hơn, sâu hơn, nhẵn hơn, và đến một lúc nào đó, anh sẽ nhìn rõ nó là thứ gì. Khi Bụi Của Người Chèo Thuyền Già bắt đầu ngấm, tôi cảm thấy như con mắt thứ hai đang từ mở ra; tôi dần nhìn thấy đường viền của một hình thù nào đó ở hướng đông, các cơ mống mắt của tôi chậm rãi hướng ra xa, vượt qua một biển mênh mông những cái tên, những ngày tháng, những con số và hàng ti tỉ những thứ lỉnh kỉnh khác hợp thành một thế giới khổng lồ này, và tôi gần như nhận ra đó là thứ gì, một thứ gì đó được tạo bởi toàn bộ những thứ trên, nhưng lại hoàn toàn không phải là chúng, thứ gì đó gớm guốc đang lờ mờ hiện ra ở phía trước.

68

LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Nó chuyển quân. Tôi chuyển quân, về phía hình thù nọ. Nó có vẻ giống một kim tự tháp đổ nát hoặc một miệng núi lửa tắt, nhưng bị xói mòn ghê gớm, đầy mảnh vụn và khe nứt. Ngay sát đỉnh có thứ gì đó nom là lạ, một chỗ lồi lên như một cái mụn cóc khổng lồ. LEON chuyển quân.

Hừm.

Tôi chuyển quân, cần mẫn và khó nhọc đi xuyên qua cơn bão tuyết của dữ liệu.Quá nhiều tiếng ồn và quá ít tín hiệu – tôi nghĩ. Cứ ý như màn hình nhiễu vậy. LEON chuyển quân. Hừm. Không phải cái này. Không phải cái kia. Mỗi lúc một khó lần đường tiến lên phía trước. Mỗi lúc một ít những cái mô đất rắn giữa đầm lầy.

LEON chuyển quân. Những nước đi giả thiết mờ ảo hiện ra rồi lại biến trước mặt tôi. Tôi chuyển quân. Lúc này, tôi thấy mình như đang leo lên các bậc thang dốc, xói lở và mấp mô không đều. Nhiều hình thù lớn vây quanh tôi nhưng không nhìn thấy, hay đúng hơn không hình dung ra chúng là những thứ gì, vì trong trò chơi này, người ta không thực sự nhìn thấy thứ gì cả, người ta chỉ có cảm giác về nó. Có lẽ cảm giác này giống như của anh chàng leo núi mù (tức Erik Weihenmayer, người mù duy nhất cho đến nay chinh phục được đỉnh Everest), người liên tục đạt những kỷ lục mới ở Tây Tạng. Vì không thể hình dung ngay được mọi thứ xung quanh, anh ta phải lần lượt tiếp nhận từng mẩu thông tin, lần tìm đường qua các hẻm núi, giữa các đỉnh núi không hình thù và khe hở rộng ngoác chẳng biết là của cái gì nữa, từ đó, tập hợp lại trong óc hình ảnh con đường một cách cần cù và một chiều, như xâu chuỗi hạt. Những bậc thang dẫn tới ngày Chúa tể 4. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Leo lên nữa, lên nữa. Một âm thanh, hay đúng hơn là cảm giác về ký ức về một âm thanh, vọng đến từ đâu đó gần trục giữa bàn cờ, một tiếng rì rầm khe khẽ và đứt quãng, gợi tôi nhớ đến một âm thanh từng nghe cách đây rất lâu, một âm thanh gì đó… hừm. Ký ức đó đã chập chờn hiện ra nhưng tôi không thể nhớ hẳn ra được. Đừng để ý chuyện ấy nữa. Tập trung vào. Lúc này, tôi bắt đầu có cảm giác về một cái hố gần đỉnh núi, thứ mà trong tiếng Ch’olan chúng tôi gọi là k’otb’aj – hang mặt trời.LEON chuyển quân, cố đẩy tôi xuống chân dốc. Tôi đặt thêm một quân cờ nữa xuống bàn. LEON quay lại. Hừm. Nó chuyển quân, tôi chuyển quân, nó chuyển quân… xong. Tôi lại tiếp tục lên dốc.

LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Lên cao nữa. Lên cao nữa. Hình như có những viên đá màu đỏ gỉ sắt giống đá bọt Badland vỡ lạo xạo dưới chân tôi. Lên cao nữa. Tôi có cảm giác đã lên tới độ cao quá ngọn cây. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Lên cao nữa. Độ cao này thì đến kền đền cũng không lên. Tôi đang đứng trên sườn tây ngọn núi, nơi vẫn còn giữ được chút hơi nóng của mặt trời già cỗi. Đây là một mặt trời khác, không phải mặt trời mọc hàng ngày, mà là mặt trời của b’ak’tun, mặt trời 394 năm. Nó sẽ không lên tới thiên đỉnh trước ngày Chúa tể 4. Và vì chúng tôi đang ở nửa kia của thế giới – nửa phản xạ, có thể gọi thế – nên mặt trời này mọc ở đằng tây.

Lên cao nữa. Cao nữa. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân.

Ahhhh.

Ngừng một lát.

Dường như tôi đang đứng trên một bậc chuyển tiếp giữa hai đoạn cầu thang, hoặc một bình nguyên, hoặc một tablero nếu coi ngọn núi này là tàn tích của một kim tự tháp kiểu Teotihucán. Phía trước, cách không xa là một lối của rộng nằm trên một thềm đá phẳng, một hình ô-van nham nhở, không cân xứng, với một lối dốc xuống dẫn sâu vào trong núi, ngay phía sau lối cửa là talud – dốc núi tiếp theo, tiếp tục chạy lên theo một đường thoai thỏai… và tiếp nữa, ở rìa của tablero tiếp theo, hình như tôi thoáng thấy một tảng đá khổng lồ nhô ra, màu da cam xỉn. Tôi di chuyển quân cờ lên phía trước. LEON chuyển quân. Tôi chuyển quân. Đây rồi.

Âm thanh nghe rõ dần, hay tôi nên nói là cảm giác về âm thanh ngày một mạnh mẽ. Nó giống tiếng gào the thé, tiếng kêu be be sâu trong cổ họng và rõ ràng là vọng lên từ con đường ngầm chạy vào trong núi. Và qua độ cong của tiếng vang, tôi có phần nào khẳng định rằng hang động đó còn lớn hơn chính bản thân trái núi, và rằng đủ rộng đến vậy, nó vẫn chật ních các sinh vật. Chúng giống dơi, nhưng không phải là dơi. Có lẽ chúng treo mình thành từng bầy như dơi, hay chí ít những con cùng bầy tụ tập gần nhau, và chúng đông như dơi trong hang động lớn, thực ra còn hơn thế, thậm chí là vô số nghìn tỉ con. Và nghe ra thì không phải dơi. Chúng to lớn hơn. Vì lý do nào đó tôi cảm giác rằng chúng trụi lông. Chúng là thứ gì không biết? Tiếng kêu gợi tôi nhớ đến thứ gì đó, thứ gì đó từ thời thơ ấu, nhưng không liên quan đến Guatemala, thứ gì đó… ồ, phải rồi. Nhớ ra rồi.

Đó là Eumetopias jubatus (Loài sư tử biển sống ở bắc Thái Bình Dương, còn gọi là sư tử biển Stelller). Năm thứ ba sau khi chuyển đến ở cùng nhà Ødegãrd, họ có đưa tôi theo trong một chuyến du lịch cùng các con chiên trong giáo sư đến San Francisco và Seattle; trên đường quay về, xe búyt ghé lại Hang Sư Tử Biển, một điểm tham quan tư nhân nằm ven đường cái gần một thành phố tên là Florence trên bờ biển thuộc địa phận bang Oregon. Vào mùa xuân, ở đây có khoảng ba trăm con sư tử biển Steller tụ tập và kết đôi trên các vách đá. Tôi đi cáp treo từ trên vách núi xuống, đi qua con đường ăn sâu vào núi đá vôi, dẫn ra một bao lơn đục vào đá khoảng ba tầng nhà, bên trên là trần hang cao bằng mười tầng, tôi đứng, cố hiểu xem chuyện gì đang xảy ra với những cái đống nần nẫn toàn mỡ và xương kia. Các con cái kêu rít lên khi các con đực nặng hàng ngàn pound cuỡi lên người chúng. Những con đực đầu đàn và con đực chưa có đôi liên tục gầm rào với nhau hàng tiếng đồng hồ. Nhữnt tiếng rống dội đi dội lại trên mặt đá ướt. Thời buổi này, khi nói “tiếng động lớn và đáng sợ”, anh thường nghĩ đến tiếng động do con người gây ra, tiếng búa khoan san phẳng một đỉnh núi, tiếng những chiếc phi cơ khổng lồ làm nóng động cơ, tiếng nổ, tiếng pháo, vân vân. Nhưng ngay cả khi tiếng động trong cái hang đó tự nhiên một trăm phần trăm – thực ra nó không hề thay đổi, vẫn thế hàng triệu năm nay, thực ra nó không khác lắm tiếng của bầy khủng long lưng gai hay khủng long sừng kiếm, ví dụ thế – nhưng nó vẫn đáng sợ không kém bất kỳ âm thanh nào anh được nghe sau này, thứ âm thanh mà không ai có thể chịu đựng được và hiển nhiên không thể quên được. Tôi nhích lên từng inch một. Trong tiếng ồn có điều gì đó khiến tôi cảm giác các sinh vật kia đang phấn khích, đang xòe rộng cánh, sẵn sàng lao ra khi mặt trời này bị chôn vùi vào ngày Chúa tể 4. Chúng sẽ lũ lượt ào ra thành một dòng gần như bất tận, qua nhiều tun và k’atun, và b’ak’tun, chúng sẽ tràn ra khắp trái đất, lớn lên và sinh sôi. Nếu các bạn chưa từng nhìn thấy dơi trong hang động thì tôi có tả các bạn cũng chẳng hiểu, mà nếu các bạn thấy rồi thì chẳng cần tôi giải thích nữa. Nhưng điều đáng sợ nhất nằm ở chỗ chúng dường như đông vô kể. Tưởng như ngay cả trong lòng đấy cũng chỉ toàn dơi là dơi.

Tôi dò dẫm lần đường quanh cửa hàng. Bây giờ, tôi có thể chắc chắn những tiếng kêu gào và rú rít ấy quá đa dạng và lặp lại quá nhiều để có thể coi là kêu bừa linh tinh, tôi dừng lại ở ô cờ này một lát, cố nghe xem chúng đang nói gì, ừ, đúng, đó là một thứ ngôn ngữ nào đó – tôi nghĩ. Nhưng là thứ ngôn ngữ tôi chưa từng nghe, thậm chí tôi cá rằng đó không phải là tiếng người; thực tế, một vài âm tiết gợi tôi nhớ đến tiếng rủa mà lòai khỉ rú thường dùng khi… hừm. Giá tôi có thể nghe rõ thêm một chút, giá tôi có thể đứng lại đây lâu hơn một chút, tôi nghĩ mình đã đóan được ra… nhưng LEON lại chuyển quân và nó không ngừng suy nghĩ trong lúc đồng hồ của tôi chạy; mặt trời đang nhích dần về phía ngày Chúa tể 4 và MÌNH PHẢI ĐI TIẾP – tôi nghĩ. Tôi liền đẩy sọ thứ tám của mình tiến thêm hai ô, cố không tỏ ra bị đẩy vào thế phòng thủ. Đừng để LEON lấy lại thế chủ động, – tôi tự nhủ. Lúc này tôi đang đứng ở một bên cửa hang, tại một vị trí mà tôi có thể ngẩng đầu nhìn lên tảng đá phía trên. Nhìn từ đây, không thể tin rằng nó được chống đỡ bởi thứ gì đó. Nếu nó bị trượt khỏi chỗ đang nằm và lăn xuống, nó sẽ đè bẹp tôi như con bọ chét dưới gót giày sắt. Nhưng nghiêm trọng hơn, nó sẽ bít kín cửa hang và những sinh vật kia sẽ không bao giờ ra được. LEON đi lùi một ô. Tôi tiến một ô, đến vị trí mà tôi cảm giác như chạm được vào mặt dưới tảng đá.

Oa.

Nó nhúc nhích. Khiếp quá. Tôi giật nẩy mình, thu người lại như quả bóng trong ghế, như thể tảng đá đang lao sầm xuống người tôi, nhưng một lát sau, rõ là tôi vẫn còn sống, tôi lại chạm vào nó lần nữa. Nó vẫn ở đó, cho dù “đó” là chỗ nào đi nữa. Tảng đá khổng lồ vẫn đứng thăng bằng ở tâm của trọng lực, nó chỉ hơi lắc lư chậm rãi trong gió quanh cái bản lề bé tí xíu. Nó là một tảng đá bập bềnh, giống như ngôi đền trên tảng đá vàng ở Kyaiktiyo, Myanmar, mỗi ngày dường như lại trượt một tẹo khỏi đỉnh. Quả thực, người ta khó có thể tin rằng ngôi đền đó vẫn chưa rơi hẳn xuống. Nó nằm trên ấy chí ít là hai ngàn năm rồi, mà đấy chỉ là khỏang thời gian mà lịch sử ghi chép lại được thôi. Tôi cảm giác rằng tảng đá mới chỉ hơi mấy thăng bằng một chút thôi, rằng nó hơi ngả sang hướng tây, rằng nó muốn rơi xuống miệng hang và bít chặt nó mãi mãi. Khi dò dẫm đến gần hơn, hình như tôi sờ thấy một hòn cuội đá chặn vào giữa tảng đá và vách núi. Và rồi hình như tôi cảm thấy có một sợi dây hoặc sợi thừng buộc quanh viên đá và kéo căng ra, căng cứng như dây C8 của cây đàn piano, chạy vào khoảng không trống rỗng bên tay trái tôi. Tôi liền hiểu ra: toàn bộ những thứ này là một cái bẫy, một cái bẫy tai ác giống loại bẫy mà thổ dân Paiute trước kia dùng để đè chết chuột vàng và chó sa mạc. Và tôi hiểu ra rằng có kẻ nào đó đang đứng từ rất xa, giữ đầu dây bên kia, đang chuẩn bị tư thế sẵn sàng giật để kéo bật hòn cuội ra, đẩy tảng đá lao xuống hang. Và đây cách duy nhất để ngăn điều đó xảy ra, để những thứ bên trong – dù có là thứ gì đi chăng nữa – được ra khỏi hang đúng như dự tính là tìm cho được cái thằng khốn giữ dây – tức tên doomster – và chặn không cho hắn giật.

Tôi ngả người trên ghế và giật một túm trong mớ tóc, nhờ giời phù hộ, đang mọc lại. Chỉ hơi có cảm giác. Tôi sờ lên mũi nhưng chẳng biết đã chạm vào nó hay chưa nếu không lé mắt nhìn. Tê hết cả người rồi, – tôi nghĩ. Chết tiệt, mình kiệt sức rồi. Tôi ngồi thẳng dậy và cảm giác như có thể với được sợi dây. Nó quá mảnh để trông thấy, hay đúng hơn là hình dung thấy, nhưng vẫn có một vạch xam xám cho thấy nó chạy về hướng bắc – tây bắc, đến ô phần tư màu đen trên bàn cờ, sát với ô màu trắng. Tôi gãi đầu, lùi lại một tí và gần nhu trông thấy sợi dây căng ngang qua đầu và mất hút trong màn hơi mù mịt trên mặt nước Thái Bình Dương. Alaska chăng? – tôi phân vân. Nhìn từ đây thì không nói chắc được. Tôi cảm nhận nó một lần nữa. Không có cách nào nối nó vào ròng rọc hay lần dọc theo nó được, không chỉ vì đây chỉ là tượng tưởng – mặc dù lúc này với tôi nó hoàn toàn y như thật – mà vì trò chơi không cho phép ta làm vậy. Nếu làm vậy sẽ giống như cho quân xe trong môn cờ vua nhảy theo đường chéo. Tôi phải chạy bộ trên đất liền theo nó. Quá khứ. Hiện tại. Tôi lao xuống các bậc thang phía bắc và rẽ sang hướng tây bắc, chạy ngang qua vùng đồng bằng. LEON bám theo tôi. Tôi nhảy về phía trước. Nó nhảy theo. Đôi lúc tôi tưởng như mình cảm nhận được sợi dây ở trên cao, điều đó có nghĩa là cho đến lúc này linh cảm cuối cùng của tôi vẫn đúng, và rằng thằng cha mà chúng tôi đang đeo đuổi – nhân đây, xin kể với bạn đọc rằng chúng tôi đã khẳng định hắn là đàn ông, vì đàn bà không thích tội ác diệt chủng­ có liên quan tới vùng tây bắc Thái Bình Dương (Khu vực nằm phía tây bắc lục địa Bắc Mỹ, chỉ các vùng đất liền chứ không phải đại dương.) Nhưng điều đó cũng không giúp thu hẹp phạm vi tìm kiếm xuống mức chấp nhận được, dĩ nhiên. Nó vẫn rộng chẳng kém gì khái niệm “ẩm thực châu á”. Các công cụ tìm kiếm lại thu nhập được thêm vài nghìn tỉ byte. Chết tiệt, mình cần một thuật toán tinh vi hơn để giải quyết cái đống này. Nhiều khả năng phỏng đoán hơn. Các đường cong khớp nhau nhiều hơn. Một chức năng nên quỷ quái nào đó kiểu Kolmogorov (AndreyNikolaevich Kolmogorov, nhà toán học người Nga.) Tuy nhiên, hắn chắc chắn phải là một kẻ trong số đó. Thời buổi này, khó còn có người nào không để lại vết tích trên mạng. Để hoàn toàn không có thông tin về bản thân lưu trên thế giới internet, anh phải là một đứa trẻ mới sinh ở một bộ lạc săn bắn hái lượm nào đó tận miền núi New Guinea. Mà như thế thì đằng nào anh cũng chẳng trở thành doomster đựơc. Thằng cha của chúng tôi chắc chắn phải có ít nhiều kỹ năng công nghệ. Gần như không có khả năng hắn không có mặt trong danh sách một trường trung học hạng trung bình nào trong bốn mươi năm trở lại đây. Ngay cả khi học tại gia, hắn vẫn phải đăng ký với một cơ quan giáo dục cấp tỉnh hoặc cấp bang nào đó. Vậy là đã thu hẹp được phạm vi đối tượng xuống còn khỏang một tỉ gì đó trong số 6,8 tỉ người trên thế giới. Cộng thêm việc khoanh vùng trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, con số giảm xuống còn khoảng ba mươi triệu. Khá ngon rồi.

Tôi tiến thêm ba bước về phía tây, tiến sâu hơn vào tương lai, dến tháng 11. Các dữ liệu xoay tít mù quanh tôi, nào tên, địa chỉ, mã số an ninh, hồ sơ nghĩa vụ quân sự, nghề nghiệp, các khoảng đầu tư, tên miền, mã bưu điện, hồ sơ tiền sự, hồ sơ tiền sự vị thành niên có thể đã bị xóa, danh sách nhân viên các công ty tư nhân, danh sách công chức, các phường hội, liên hiệp, hiệp hội ngành nghề, câu lạc bộ xã hội, hội kín, danh sách con chiên theo đạo, đăng ký mua tạp chí dài hạn, thông báo bằng thư điện tử của Google, đăng ký phương tiện giao thông, hồ sơ cước điện thọai, thuốc mua theo đơn, thậm chỉ cả danh sách các đội paintbal (Một trò chơi tập trận trong đó người chơi bắn vào đối thủ những “viên đạn” mang sơn màu), cả một đống tham khảo chéo rối tinh đến mức không thể rối hơn được nữa, hệt như một cái đầu tóc dài bện xoắn xuýt lại với nhau. Tôi chuyển quân. LEON sàng lọc lại thông tin, đánh giá và loại tất, chỉ để lại khoảng 0,00001 phần trăm rồi chuyển quân.

Chưa thấy gì. Tốt thôi. Tôi tiếp tục đi đến tháng 12. Lại một đống thông tin nữa trút xuống. Tôi ngồi chờ. Mạng hôm nay chậm. Một loại vi rút mới nào đó đã làm sập các máy chủ, không chỉ trong vùng mà cả hàng loạt trạm trên cùng đường dây T3. Thiên hạ đồn rằng chuyện này chỉ có chính phủ Mỹ mới làm được. Hoặc là họ – tôi nghĩ – hoặc là một thằng nhóc mười hai tuổi đủ thông minh với một cái bàn phím và một giấc mơ. LEON xử lý toàn bộ số dữ liệu đó, đánh giá từng mẩu thông tin dựa trên khả năng liên đới với tên doomster giả định. Nó chuyển quân. Tôi chuyển quân. Thêm 3 x 1012 mẩu thông tin nữa. LEON cẫn mẫn sàng lọc, không hề ca thán. Lần này, nó đối chiếu với các giáo phái tin vào thời đại hoàng kim và các tín ngưỡng tin vào ngày tận thế đã được ghi nhận. Thể loại này thì đông vô cùng – kết cục của thế giới luôn là đề tại được ưa chuộng – và Taro đã khăng khăng đòi chúng tôi xây dựng một hệ thống để cứ vài nước đi lại kiểm tra đối chiếu một lần. Song tôi vẫn đoán rằng nghi phạm của chúng tôi là một cá nhân độc lập, hoặc cùng lắm chỉ đặt một chân vào các giáo phái thôi. Hắn có thể là một tên Hồi giáo thuộc nhóm thiểu số hoặc một cựu tín đồ của giáo phái Nhân Chứng Jehovah, hay thậm chí là thành viên của giáo phái Đền Mặt Trời hay gì đó, nhưng dù có thể chăng nữa, tôi vẫn cá một ăn năm rằng hắn không phải là thành viên tích cực gì cho lắm. Hắn là một kẻ cô độc. Và cũng không phải thằng đần kiểu Oswald (Lee Harvey Oswald, kẻ ám sát tổng thống Mỹ John F.Kenedy, ban đầu người ta cho rằng hắn thực hiện một mình nhưng nhiều năm sau ban điều tra kết luận vụ ám sát có thể là kết quả của một âm mưu.)Hắn là kẻ cô độc thực sự.

LEON chuyển quân. Khỉ thật. Không thấy gì.

Hừm. Chậm lại nào. Hít thở đi.

Thu hẹp dữ liệu lại. Có lẽ hắn đang khoe khoang. Dù chỉ một tẹo thôi. Tôi lùi lại một chút, về nơi mà chúng tôi vẫn gọi là Không gian Bugmouth. Đó là một dải thiên hà của các dịch vụ internet, mạng liên kết xã hội và mọi cộng đồng mạng khác, thêm hơn một nghìn tỉ thư điện tử lưu trữ, tin nhắn dạng văn bản, các cuộc điện thoại lưu trên hệ thống máy tính và đủ thứ linh tinh khác. Một con quái vật khổng lồ: 2 x 1012 mẩu dữ liệu đến một nghìn giây này. Nhận lấy này, bé LEON.

Nó nhận. Nó tham khảo chéo mọi thứ mà chúng tôi đã làm đến lúc này đống dữ liệu đó: Twitter, Facebook, Bebo, Orkut, Flickr, MySpace, Blogger, Technorati và hàng trăm trang web khác ít được biết đến hơn, cả đang hoạt động, đang ẩn lẫn ngừng hoạt động. Chó ngoan, – tôi thầm khen nó. Tưởng tượng mà xem, người ta từng gọi nó là Siêu xa lộ thông tin. Siêu kho thông tin thì đúng hơn. Đống rác lớn nhất và bốc mùi nhất thế giới. Bãi rác Staten Island của đầu óc. Bất chấp, LEON vẫn xử lý hết. Esta bien.

Dữ liệu lại được thu hẹp. Tôi chuyển quân đến không gian có tên là “ngôn ngữ đặc trưng”. Về cơ bản, nó là danh sách những từ ngữ tầm phào (như Ngày lên thiên đường (Theo một học thuyết thiên chúa giáo, ngày lên thiên đường là sự kiện chúa Jesu tập hợp các con chiên trên trái đất để đưa lên thiên đường, dến khi hết Khổ nạn lại cùng người quay về), Dajjai (Con quỷ trong quan niệm của người đạo Hồi tin vào thuyết tận thế, sẽ xuất hiện trước ngày Phán quyết), Thuyết tái thế BI, Âm ti, Kali Yuga (Thời đại của quỷ Kali, một trong bốn giai đoạn của một chu kỳ sinh diệt của thế giới theo quan niệm của tín giáo)), các câu nói tầm phào (như “tao có một quả bom”, “tao ghét tất cả giống người”, “thế giới phải bị hủy diệt”) và tất cả những gì gợi cho công cụ tìm kiếm ngày một tinh tế của LEON nhớ đến các từ ngữ kiểu như vậy. Tôi nhắc nó liên tục kiểm tra các lỗi chính tả nhưng có thể bỏ qua các lọai ngôn ngữ lăng nhăng. Nghỉ vài giây đi. Mày giỏi lắm.

LEON suy nghĩ và chuyển quân.

Hừ.

Mười ngàn bốn trăm bốn mươi.

Nghĩ là, đến lúc này , sau ba trăm tám mươi nhăm lần chuyển quân, tôi – hay tôi nên nói là LEON và tôi – đã nhận diện được mười ngàn bốn trăm bốn mươi tên doomster tiềm năng.

Dĩ nhiên, chúng tôi đã bỏ qua rất nhiều đối tượng. Tên doomster có thể đã lọt ra ngoài cùng chỗ nước thừa mà chúng tôi đã hất đi. Nhưng tôi vẫn cá một ăn ba rằng hắn nằm trong số mười ngàn bốn trăm bốn mươi này.

Không tồi. Giờ thì chỉ cần lăn lưng với cái đống này thôi. Nào.

Tôi chuyển quân. LEON chuyển quân. Sợi dây vẫn còn ở rất cao nhưng nó đang tiến gần xuống mặt đất. Tám sọ. Tôi mất một sọ. Bảy sọ. Không phải Alaska. Cũng được tí kết quả rồi. Hừm. Không phải California.

A ha!

Không phải ở Mỹ.

Vậy hắn là người Canada.

Kiểm tra các lại các khả năng. Hắn vẫn ở Canada. Tôi cả gan đánh cược là British Columbia hoặc Alberta (Hai tỉnh niềm tay nam Canada). Có thể bỏ qua toàn bộ vùng phía bắc được rồi. A ha. Tao sẽ tóm được mày, cái thằng mông đường thích (Một sản vật của Canada, nơi cây thích là biểu tượng của đất nước) chết toi kia.

Tôi chuyển quân. Hình như tôi đang đứng đâu đó gần Vancouver (thành phố lớn nhất của British Columbia.) Bây giờ là ngày 10 tháng 12, mười một ngày trước ngày Chúa tể 4, và tôi đang tìm kiếm trong đám sương mù. Tôi không thấy gì nhiều lắm nhưng có cảm giác rằng đám sương mù đang tan dần và mọi thứ sẽ sáng sủa hơn. LEON chuyển quân. Được rồi. Không phải ở đó, – tôi nghĩ. Ở kia. Không. Không phải ở kia. Không phải ở đây. Không phải ở đó. Tôi xem lướt qua các hồ sơ. Rất nhiều trong số đó chỉ là những cái tên với một vài thông tin mà không có tên. Có cái chỉ có ký danh của người dùng. Dù gì thì cũng cứ kiểm tra – tôi nghĩ. Đừng có làm thằng ăn mày kén chọn. Được rồi. Đây. Không phải. Không phải hắn. Không phải hắn. Tôi lại có cảm giác gần như chạm được vào sợi dây, chỉ có điều nó cứ nhảy tanh tách từ chỗ này sang chỗ khác, vuột khỏi tay tôi trong cơn bão. Đây rồi. Tôi tóm lấy nó. Những mẫu dữ liệu không trùng khớp chảy ra và biến mất như những tuyết tan trong không trung. Tuột mất rồi. Cố lên nào. Đi tiếp đi. Tôi chuyển quân. Đây rồi. Mọi thứ quả thực đã rõ nét hơn. Hay đúng hơn là… hừm. Chúng không rõ nét về hình dạng, mà về ánh sáng, ánh sáng…

Ái dà. Một vầng sáng xuất hiện phía trước, một vệt màu, đỏ tươi rực rỡ như màu sơn móng tay của tượng thần Maximôn ở San Cristóbal Verapaz. Lạ thật, – tôi tự nhủ. Màu đỏ là màu của phía đông nam. Nó làm gì ở vùng đất Xám này? Hay là mình đi sai hướng? Có thể lắm.

Bíp. LEON chuyển quân.

Hừ.

Màu đỏ tươi. Được rồi.

Tôi chuyển quân. Còn bảy sọ. LEON chuyển quân. Còn sáu sọ. Tôi lưỡng lự. Còn có năm. LEON chuyển quân. Bốn sọ. Tôi chuẩn bị chuyển quân. Không, chờ đã. Tôi rụt lại. Mẹ kiếp. Đừng có nghĩ thật thà thế.

Hít một hơi đã.

Tôi liếc nhìn lên đồng hồ trên màn hình. Ba giờ chiều. Vậy là tôi đã chơi gần tám tiếng đồng hồ, trước đây tôi chưa từng chơi được lâu đến vậy. Nhưng mặt khác, tôi cũng mệt mỏi chưa từng thấy. Mất thăng bằng, suy nhịp tim và vất vả lắm mới nhớ ra được tên mình. Tôi bám lấy hai cạnh của cái bàn phím như thể nó có thể dùng làm phao nếu tôi ngã xuống nước. Cố mà tỉnh táo đi, Jed. Đến những nước cuối rồi.

Đâu đó, những hạt cuối cùng của Bụi Của Người Chèo Xuống Già phát huy tác dụng ngay trước khi các khớp thần kinh bị phê quá liều của tôi suy sụp. Tôi vẫn còn đủ sức phân vân không biết cái vệt màu khi có phải manh mối dẫn điều gì đó không. Một hình thù, một con vật, thứ gì đó liên quan đến màu đỏ ấy, thứ gì dó tôi từng nhìn thấy, một con số, hay thậm chí một từ, một cụm từ?

Tôi chuyển quân. LEON chuyển quân. Còn ba sọ. Còn hai sọ.

Một từ chăng? Không, là hai từ. hai từ ngắn. Từ gì đó tôi từng nhìn thấy, từ gì đó không có nhiều nghĩa lắm. Nó là gì nhỉ, là gì nhỉ…

Tôi chuyển quân.

Một sọ…

Hell Rot à?

69

Trên cửa sổ màn hình thứ nhất, một khối phơ-rông-lạnh (Một hình thái gây mưa.) trải rộng tám trăm dặm, màu vàng nóng trên nền xanh lam sẫm của vịnh Alaska, di chuyển về hướng tây với tốc độ mười hai dặm một giờ. Theo khung chú thích kèm theo, khối không khí sẽ đổ bộ vào bờ biển British Columbia vào lúc 5h30 phút sáng theo giờ chuẩn Thái Bình Dương, tức là sau năm mươi nhăm phút nữa. Mặt trời sẽ mọc vào lúc 5 giờ 22 phút, tức là hai mươi mốt phút sau giờ ấn định của cuộc tấn công. Trên cửa sổ màn hình thứ hai là một hình ảnh chưa được làm tăng độ nét từ vệ tinh do thám KH-13 Ikon, tôi nhìn thấy eo biển George tối sẫm bên tay trái, những đốm đèn đường màu da cam của Vancouver với vệt tối màu của con sông chảy qua, tiếp đến, bên tay phải là cái đuôi dài sáng trắng ánh đèn của đường cao tốc xuyên Canada chạy về phía đông theo hình chữ U rộng lòng, men theo bờ sông Fraser. Ở điểm tận cùng của chiếc đuôi bên góc phải màn hình là một vệt sáng nhòe nhòe đánh dấu thị trấn Chilliwack. Khung chú thích liệt kê vài thông tin cơ bản: rằng Vancouver là trung tâm công nghệ sinh học lớn thứ hai ở lục địa Bắc Mỹ và phát triển nhanh nhất Canada, rằng nó được nhất trí xếp vào hàng bốn thành phố hàng đầu thế giới về mức sống, rằng chỉ số IQ trung bình của người dân khá cao, khoảng 98, và – có lẽ hơi mâu thuẫn nhưng là điều chúng tôi quan tâm – nó có tỉ lệ tự sát trên đầu người cao nhất trong số các thành phố lớn ở Tây Bán Cầu.

Cửa sổ màn hình thứ ba cho thấy hình ảnh một khu hai dặm vuông của thị trấn Chilliwack. Nhìn nó chẳng có vẻ gì đáng sợ đến thế. Có hai khu tách biệt, một chạy dọc theo hướng bắc – nam, một nằm ở cung phần tư tây bắc, chéo hai mươi độ theo chiều kim đồng hồ. Về phía nam, các con phố dài hơn và uốn lượn nhiều hơn, cho biết chúng là nơi có những khu dân cư mới và đẹp hơn. Mạn đông là khu dân cư cũ, cũng có những ngôi nhà to nhưng các khu phố nhỏ hơn và sát nhau hơn, hẹp theo chiều bắc – nam rộng theo chiều đông – tây. Đại lộ Marguerite chạy từ đông sang tây, cắt ngang thị trấn và số nhà 820 nằm chính giữa. Khung chú thích ghi rằng Chilliwack là một cộng đồng hơn bảy mươi tám ngàn dân, rằng tuy kinh tế chủ đạo của thành phố là nông nghiệp nhưng rất nhiều người vào làm việc trong thành phố lớn cách đó sáu mươi dặm về phía tây, chịu đựng những chặng đường dài dằng dặc như một sự thỏa hiệp với lối sống, rằng thu nhập trung bình của dân thị trấn là bốn mươi tám ngàn đô la Canada, rằng tỉ lệ sinh hàng năm là 0,98% và tỉ lệ chết là 0,7%. Chẳng mấy chốc sẽ là 0 và 100% – tôi nghĩ.

– Sao họ không đón lõng khi hắn ra khỏi nhà nhỉ? – Asley thì thầm vào tai tôi. Cô ta vừa bước vào.

– Hắn không ra khỏi nhà bốn ngày nay rồi, – tôi đáp.

– À.

– Dù sao họ cũng cho rằng hắn cất giữ Con Dê ở đâu đó trong nhà. Đó là lý do vì sao họ chờ đến hôm nay.

Cô ta lại “à” một lần nữa. Cô ta ngồi xuống cạnh tôi và nhìn lên màn hình trên tường. Chúng tôi đang tập trung trong một phòng hội thảo lớn tại trung tâm hội nghị tạm thời gần Hyperbowl – “chúng tôi” ở đây bao gồm Taro, Lisuarte, Larry Boyle, Tony Sic, các sinh viên thực tập của Taoro, Michael Weiner (ngồi lù lù một đống trên ghế bên tay trái tôi), tôi và gần như toàn bộ những ai liên quan đến dự án Parcheesi, trừ Marena, người vì lý do nào đó mà tôi không hiểu, đang theo dõi từ xa, tại nhà riêng ở Colorado. Không khí có vẻ thoải mái đến mức tôi gần như tưởng tượng rằng chúng tôi chỉ là một nhóm sinh viên tự động kéo nhau vào phòng giải trí để theo dõi bầu cử qua truyền hình hoặc xem bộ phim Grinch đánh cắp Giáng Sinh như thế nào. Nhưng không phải đâu, – tôi tự nhắc mình, – không phải đâu đấy.

– Chiếc xe téc thứ hai rồi đấy, – Laurence Boyle nói. Hắn chỉ vào cửa sổ màn hình tiếp theo, màn hình thứ tư, với một chấm laser màu xanh nước biển. Nó đang hiển thị hình ảnh trực tiếp thu từ một vệ tinh ghi hình trong bóng tối; hình ảnh tập trung vào bốn khu nhà, chính giữa là nhà của gia đình Czerwick. Có thể trông thấy rõ căn nhà có hai đầu hồi, một gara hai xe ô tô với cái mái bằng úp chụp lên trên và một cái bàn khá to trong khoảng sân sau dài và hẹp. Mái nhà rất tiếc lại được làm bằng hợp kim mạ đồng nên tia hồng ngoại khó lòng lấy được hình ảnh từ trên cao. Chiếc xe téc mà Boyle vừa chỉ nhìn giống một lon Red Bull, không bật đèn pha, lừ lừ tiến vào, đỗ sau chiếc thứ nhất trên phố Emerald, cách đại lộ Marguerite hai tòa nhà về phía nam. Tôi đứng lên, ngó qua đầu Tony Sic để nhìn cửa sổ màn hình thứ năm. Nó có hình ảnh nét thu từ một máy quay đặt trên tháp truyền hình cách trung tâm năm khu nhà, bao quát được toàn bộ 800 khu nhà từ một góc nghiêng 45 độ. Qua góc quay này, có thể thấy căn nhà có áng chừng bốn phòng ngủ, vừa đủ kiểu cách để người ta nhận ra là nhà của người da trắng. Thềm trước cửa có bốn bậc dẫn lên một hàng hiên có mái che, khoảng trống này sẽ làm đội phản ứng nhanh mất chừng một giây gì đó. Nhưng ngôi nhà không lớn lắm – khu này được xây dựng từ năm 1988, ngay trước thời kỳ hoàng kim của McMansion (Tên dùng để chỉ những căn nhà lớn của tầng lớp trung lưu) – và tay đội trưởng nói họ có thể kiểm soát toàn bộ trong vòng không đến tám giây. Các căn nhà ở cả hai bên đường đều na ná như căn nhà này, chỉ khác nhau tí tẹo. Một vài sân nhà có trồng mấy cây phong đang độ tráng niên. Chúng vẫn chưa ra lá. Mọi thứ nom có vẻ bình thường. Thậm chí có thể coi là định nghĩa của sự bình thường. Lúc trước thì mình có thể khẳng định như vậy, – tôi nghĩ. Từ vài chục năm nay, ai cũng biết rằng các khu ven đô là một ý tưởng tồi, nhưng người ta vẫn cứ xây dựng chúng rồi bây giờ lại thắc mắc không biết những điều tệ hại đầu từ đâu tới.

Ông bố và bà mẹ – ở tuổi ba mươi sáu, Madison Czerwick vẫn sống cùng cha mẹ – hầu như chắc chắn đang ngủ ở phòng ngủ lớn ở tầng hai. Ai đó, có thể là em trai hắn, ngủ ở phòng phía sau. Madison – chúng ta sẽ gọi tên hắn thay vì họ – nhiều khả năng đang ngồi trong phòng mình. Tất cả các màn hình theo dõi khác đều cho thấy cái mà người ta gọi là “khung cảnh phù hợp với giấc ngủ đêm”. Nghĩa là không hề có ti vi, đèn bàn ở tầng một và tầng hai. Hơn một giờ đồng hồ vừa qua chưa thấy chuyển động nào của con chuột máy tính. Điện thoại, máy tính bỏ túi và các thiết bị truy cập mạng khác đều tắt. Biểu đồ đo điện chạy không dứt khoát, nghĩa là có thứ máy móc gì đó, tuy không lớn, đang chạy dưới tầng hầm. Có thể tất cả đều đang nằm ấm cúng trên giường mình. Với hình ảnh của tội ác diệt chủng đang nhảy múa trong đầu.

– Họ đang bàn chuyện lùi lại năm phút, – tiếng Ana thông báo qua hệ thống loa chung, có thể nghe thấy cả các giọng nói khác xì xầm phía sau, – để chuẩn bị cho xong các đường ống.

– Cảm ơn cô, Vergara, – Boyle đáp. Cô á? Vào lúc khác, tôi và tất cả những người khác có lẽ đã phì cười. Nhưng hôm nay thì không. Ana – người té ra ít giống lính tráng, mà giống vận động viên nhà nghề hơn tôi nghĩ – là một trong khoảng ba mươi hành khách ngồi trong toa moóc của một chiếc xe nhà di động được cải tạo khá lịch sự, đỗ cách số nhà 820 chừng mười khu nhà.

– Đây, họ đây rồi, – Ana nói. Con trỏ của cô ta xuất hiện trên màn hình số 5, khoanh tròn quanh một nhóm bốn người đang nối những cái ống dài màu trắng vào sau hai chiếc xe téc màu vàng. Họ xếp những cái ống thành hai đường thẳng thớm dẫn đến nơi cách nhà 820 năm mươi feet, mỗi đầu để chừa vài trăm feet. Ngừng lại một lát. Ai đó vặn van, hai đường ống căng lên, đến chỗ để chừa thì dừng lại, tôi đoán ở đó có một cái van khác để chặn. Đã thấy hơi nước tụ dày đặc quanh hai đường ống. Chúng chứa đầy nitơ lỏng mà chúng tôi hy vọng có thể khống chế Con Dê.

Trong ngày điều tra đầu tiên, các thám tử phát hiện ra Madison đã từng bị “tước quyền” tiếp xúc với một quần thể Brucella abortus được “gây với mục đích đặc biệt”. Đến cuối ngày thứ hai, họ khẳng định rằng các hoạt động trên mạng internet của hắn, nhất là các bản đồ gen mà hắn tải về, cho thấy hắn đang tích cực tìm hiểu cấu trúc AND của chúng. Brucella (Vi khuẩn này không lây từ người sang người) là một loại vi khuẩn lâu đời và đáng tin cậy, anh chỉ có thể bị nhiễm khi đỡ đẻ chO một con trâu nước hay uống sữa dê chưa tiệt trùng chẳng hạn. Lâu nay, nó vẫn được gọi là bệnh sốt Malta, “sốt dê”, sảy thai nhiễm khuẩn (Ở gia súc), bệnh dịch Bang và hàng trăm cái tên khác. Chúng tôi thì chỉ gọi đơn giản là Con Dê. So với loại vi rút được phát tán ở Disney World, các triệu chứng do vi khuẩn này gây ra chẳng là gì: bất thần đổ mồ hôi có mùi như rạ ẩm, đau cơ, choáng váng và tử vong, dĩ nhiên. Cũng khá ghê rợn, nhất là phần đổ mồ hôi. Tốt nhất là nhớ mang theo một lọ khử mùi hữu cơ trên đường xuống âm ti.

Tai tiếng lớn nhất của Con Dê là nó là loài khuẩn hình que đầu tiên được vũ khí hóa bởi tay chính phủ Mỹ. Năm 1953, họ đã thử nghiệm nó trên động vật, dưới dạng bom chùm tương tự như với khuẩn than sau này. Lực lượng không quân đã chọn sử dụng nó vì không như phần lớn các khuẩn hình que khác, nó có thể tồn tại nhiều giờ trong quá trình chuyên chở bằng máy bay, và thú vị hơn, nó có thể xâm nhập qua da người mà không cần có vết sứt sẹo nào, vì thế, khi chuyển chúng từ ống nghiệm này sang ống nghiệm khác, dù anh có đeo mặt nạ chống hơi độc NBC mà để hở một mảng da thì anh cũng sẽ thành mẩu bánh nướng.

Tuy vậy, đến những năm 1970, các chủng còn lại của loài vi khuẩn này đã bị cấm sử dụng và được lưu trữ trong tủ băng tại kho quân sự Pine Bluff Arsenal ở bang Arkansas. Đến những năm 1980, chúng được cho là đã bị hủy. Nhưng từ đó trở đi, có kẻ nào đó vẫn đang táy máy với loại vi khuẩn này, hoặc để phát triển các phương thức chống lại nó, hoặc để bán, hoặc có thể cả hai.

rong vòng mười sáu tháng kể từ khi mất việc ở chi nhánh Vancouver của CellCraft, Madison đã phát triển Con Dê lên mức đáng kể. Chủng Czerwick – theo dự đoán của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh qua những những gì họ tìm được trong ổ cứng máy tính của Madison – hiện có các đặc tính tức thời phổ biến như sinh sản nhanh, kháng chất diệt trùng, không gây triệu chứng ngay sau khi nhiễm và hoạt động như một quả bom hẹn giờ chính xác đến từng ly. Nhưng đặc điểm cải tiến đang chú ý nhất là khả năng truyền nhiễm linh hoạt. Các chủng Brucellis cổ điển có thể lây truyền từ một vài loài động vật sang người và có thể là từ người sang động vật. Nhưng đa số các loài động vật hoàn toàn miễn nhiễm, hoặc do tuổi thơ hoặc phương thức sống mà không thích hợp để làm trung gian truyền bệnh cho người.

Công trình của Madison đã đào rộng thêm cái hố của các trung gian truyền bệnh tiềm năng một cách đáng kể.Chủng vi khuẩn mới biến đổi nhanh hơn, theo hướng dễ thích nghi hơn bất cứ loài khuẩn hình que tự nhiên nào khác. Cứ như thể chúng tự biến đổi được AND của chính mình để thích ứng với cấu trúc prô-tê-in của hàng trăm họ động vật khác nhau cứ không chỉ loài linh trưởng. B, czerwichi có thể nhảy qua rào cản của sự khác biệt giữa các loài hết lần này đến lần khác, nhảy qua nhảy lại, khắp sinh quyển. Thông thường, bệnh dịch sẽ ít gây tử vong hơn khi chúng lan rộng – vì nếu không sẽ chẳng còn động vật trung gian nào để truyền bệnh – nhưng vì có quá nhiều loài có thể làm trung gian truyền Con Dê nên cũng còn chán mới đến được cái ngưỡng ít gây tử vong ấy. Theo một vài dự đoán của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh, Con Dê có thể giết sạch các loài thuộc họ linh trưởng và toàn bộ hoặc phần lớn các loài có vú khác. Điều đó cho anh thấy con chồn nhỏ Czerwick mà tức giận thì sẽ như thế nào.

Giống như các vị tổ tiên của mình, Con Dê có thể bị tiêu diệt bằng kháng sinh trị nhiễm trùng tiêm thẳng vào cơ. Nhưng với việc phát bệnh hàng loạt vào đúng một thời điểm ấn định trước, sẽ chẳng có đủ thuốc kháng sinh cho tất cả, cho dù còn đủ người để đi phân phát chúng. Và đương nhiên, Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh đã bắt tay vào nghiên cứu vắc-xin, nhưng phải mất thêm một thời gian nữa mới hoàn tất và hơn một năm nữa mới có thể sản xuất được thuốc hàng loạt. Các dự đoán của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh – hay chí ít cũng là các dự đoán mà chúng tôi được biết – chỉ ra rằng chỉ một số người sinh sống ở các vùng gần cực có thể sống sót. Nhưng với khả năng chịu lạnh của Con Dê, con số đó cũng sẽ không nhiều. Thứ vi khuẩn đó có thể lây khắp các loài này sẽ khiến vùng cận cực cũng trở nên quá nóng đối với con người trong vòng vài thập kỷ, ít nhất là thế.

– Anh nghĩ hắn có bao nhiêu thứ đó trong đấy? – A2 hỏi. Tôi nhận ra cô ta đang đứng kiễng chân để ghé được vào tai tôi. Tôi đoán cô ta quá lịch sự hoặc quá câu nệ để nắm lấy vai tôi và kéo đầu tôi thấp xuống. Tôi hơi cúi xuống.

– Ana đoán khoảng hai ga-lông, – tôi đáp. – Hắn dùng bovine colloid (Một loại protein dùng làm môi trường nuôi cấy vi khuẩn) nhiều như cháo đậu vậy.

– Như thế có đủ không?

– Ý cô là có đủ để tiêu diệt cả hành tinh không á?

– Ừ.

– À, cô phải tính rằng mỗi ga-lông chứa khoảng ba phẩy tư nghìn tỷ con vi khuẩn, – tôi đáp, – vì vậy, nếu tốc độ phân chia là 10% một ngày thì ngay cả khi tỉ lệ chết tự nhiên là 20% một ngày, cô cũng sẽ có 2 x 1018 con trong vòng một tuần, nhiều hơn phần lớn các đại dịch khác.

– Ồ.

– Đúng thế đấy. Tùy thuộc vào số lượng các loài trung gian truyền bệnh tăng thêm… trong vòng một tháng, nó sẽ đông đúc và phổ biến như… như khuẩn tụ cầu chẳng hạn.

– Gesundheit (“Sức khỏe”, một câu trong tiếng Đức mà người ta thường nó khi có người hắt hơi), – Micheal ghé vào tai tôi.

– Cảm ơn, – tôi đáp.

– Phải đấy, chẳng có gì hài hước bằng chuyện cười về cái giá treo cổ, – lão gật gù.

– Chí ít thì có vẻ như họ đã nắm rõ tình hình, – Ana nói.

– Hy vọng thế, – tôi đáp. Thực ra cô ta đúng, hay phải nói là đúng hơn tôi. Theo những gì tôi thấy, chí ít là vậy, các thám tử Mỹ và Canada – thật đáng kinh ngạc – đã hoàn thành xuất sắc công việc. Tôi tưởng họ sẽ mất hàng tuần để thu thập các chứng cứ kết tội hắn, nhưng họ đã xong xuôi chỉ trong có vài ngày. Thực tế, hắn đã để lại khá nhiều dấu vế trên blog, đủ để các bạn nghĩ rằng đáng ra tôi phải phát hiện ra hắn từ lâu rồi. Hắn cứ lải nhải suốt rằng vụ Disney World là do bàn tay của một kẻ lo sợ người khác sẽ làm việc đó trước hắn, rằng hắn lo sợ một thằng nhãi ranh nào đó sẽ ăn cắp vị trí của hắn trong lịch sử chứ không thực sự quan tâm đến vấn đề này. Đáng ra mình phải biết là hắn ngay từ lúc ấy chứ – tôi tự nhủ đến lần thứ “n”. Thằng đần. Nhẽ ra mình đã có thể tránh được toàn bộ chuyện này. Nhưng đâu có dễ thế, phải không? Nhất là đối với một người như tôi, người phải gắng sức mới có thể thấu cảm. Dù sao, cứ nghỉ ngơi tí đã. Hell Rot không phải một trang web thông dụng, nhưng hàng ngàn người đã xem nó, trong đó có cả các nhân viên theo dõi hồ sơ tội phạm của DHS, và chẳng ai trong số họ đánh dấu nó để lưu ý, bất chấp việc nó có những câu như thế này:

Con người đã viết sách, làm

phim và trò chơi về NGÀY TẬN

THẾ TỪ BỐN NGÀN NĂM NAY

BỞI HỌ BIẾT ĐÓ LÀ ĐIỀU NÊN

LÀM. Và cuối cùng điều đó cũng có thể

thực hiện được [trích dẫn nguyên văn]

Có lẽ nó lọt lưới đơn giản vì Madison không đề cập thứ gì cụ thể. Hắn không nhắc đến bất cứ cái tên, địa điểm hay ngày tháng nào. Nói đến chuyện này, có điều lạ lùng rằng hình như hắn đã chọn ngày 21 tháng 12 một cách ngẫu nhiên, chí ít là qua những gì thấy trên blog của hắn. Không hề có chữ nào về lịch Maya hay những thứ liên quan đến thời kỳ tiền Columbia, hay bất cứ thứ gì tương tự. Như thế hắn đơn giản lôi nó ra từ cái mũ giấy của mình, mà tôi chắc chắn không phải vậy.

– Hai trăm giây, – Ana nói.

Tất cả mọi người trong phòng ngồi thẳng người dậy. Micheal Weiner chuẩn bị ho nhưng cố nén lại. Lần này không có ai nôn mửa. Người nào đó bật đài theo dõi chiến dịch và chúng tôi lắng nghe tiếng viên chỉ huy kiểm tra toàn bộ các đơn vị lần cuối.

– Hazmat A? – tiếng anh ta vang lên.

– Đã vào vị trí, – giọng một phụ nữ của đơn vị Hazmat A trả lời.

– Hazmat B?

Trong vòng sáu mươi giây tiếp theo, họ rà soát một danh sách dài: một đơn vị phụ trách hóa chất, một chuyên gia về chất độc, một đơn vị hạn chế hiểm họa sinh học sử dụng các bình xịt chống vi rút và vi khuẩn, hai chuyên gia về thuốc xông, hai xe téc chở ga nén, một xe tải chở đầy chó nghiệp vụ đánh hơi, một đội rà phá bom mìn, một rô bốt phá bom nổ chậm, một người điều khiển rô bốt phá bom nổ chậm. Tiếp đến, ba nhóm biệt kích, mỗi nhóm năm người, báo cáo có mặt. Đúng ra, phải gọi là “đơn vị” chứ không phải nhóm. Mỗi đơn vị có một chỉ huy, hai lính chiến đấu, một người phát hiện mục tiêu và một người cảnh giới phía sau. Hai đơn vị sẽ xông vào qua cửa trước, kiểm soát các phòng từ tầng một trở lên. Đơn vị còn lại sẽ đột nhập từ phía sau, kiểm tra bếp sau đó xuống tầng hầm.

– “High Man” A?

– Đã vào vị trí, “High Man” A đáp.

Sau anh ta, thêm sáu người phát hiện mục tiêu, hay còn gọi là “High Man”, báo cáo có mặt. Mỗi người đóng tại một vị trí khác nhau trên mái nhà hoặc cột điện thoại. Thông thường, một vài trong số đó đồng thời là lính bắn tỉa, nhưng hôm nay không ai có vũ khí. Thực tế, chiến dịch Con Dê khác phần lớn những cuộc đột kích khác ở chỗ không hề có khẩu súng nào gần khu vực tấn công. Lý do không chỉ vì không có khả năng bị bắn trả – ai quan tâm đến chuyện ấy cơ chứ, khi tất cả chúng ta đều sắp toi cả? – mà vì “việc bắt được nghi phạm trong tình trạng còn sống và nguyên vẹn quan trọng hơn mạng sống của cảnh sát”. Xuất hiện cuối cùng là các cỗ xe chuyên dụng. Hai xe cấp cứu chạy vào phố Marguerite và đỗ lại cách nhà số 820 một khu nhà. Một xe cứu hỏa thông thường đỗ trên phố Ermerald. Khoảng hai mươi xe cảnh sát không biết từ đâu lù lù hiện ra, vây thành một vòng tròn quanh bốn khu nhà với tâm là số nhà 820.

– Còn vấn đề gì không? – viên sĩ quan chỉ huy hỏi. – Tốt rồi. Chúng ta còn cách giờ T bảy mươi giây nữa. Tôi muốn kiểm tra lại công tác chuẩn bị đối với nhà số 820.

– Tất cả đã sẵn sàng, – một giọng đặc Anh trả lời. Ý anh ta là họ đã sẵn sàng tắt nguồn điện ngay khi các đơn vị biệt kích phá cửa để ánh sáng không làm chói mắt kính nhìn trong đêm của họ, và rằng chuông báo động ở cửa nhà Czerwick đã được ngắt tại trạm cung cấp dịch vụ, và rằng bà Czerwick nuôi hai con mèo chứ không nuôi hai con chó. Ana cũng thông báo rằng toàn bộ sáu con chó của nhà hàng xóm, được đánh giá là cảnh giác quá mức, đều đã bị đánh thuốc an thần nhẹ. Tôi không biết rõ họ làm điều ấy bằng cách nào, nhưng họ không muốn lộ thông tin cho bất cứ ai ở các nhà xung quanh, vì thế, có thể là họ cho người lẻn vào, mang theo diazepam nhét trong thịt lợn muối xông khói. Sự chuẩn bị ở đây còn bao gồm cái họ gọi là “làm chậm đường dây”. Tức là vào lúc hai giờ sáng, họ đã đẩy lùi thời gian của toàn bộ căn nhà đi sáu mươi giây. Họ cài đặt lại đường dẫn đến đồng hồ nguyên tử trên các máy tính của Madison, chỉnh đồng hồ trên internet và trên điện thoại di động chậm đi sáu mươi giây, thậm chí còn gửi các tín hiệu mới đã được làm chậm thời gian đến chảo bắt sóng truyền hình trên mái nhà và các máy radio kiểu cũ mà người trong nhà có thể bật lên. Đương nhiên, tất cả đồng hồ đeo tay, đồng hồ bàn và đồng hồ bỏ túi không được kết nối qua sóng hoặc mạng internet sẽ tắt hết, nhưng thời buổi này ai còn xem giờ bằng những thứ ấy nữa? Như vậy, nếu có kẻ ba hoa nào nhận thấy có chuyện đang diễn ra ở đây và bắt đầu thông báo trên mạng và truyền hình (tôi thấy nó đủ ghê gớm để làm xôn xao cả nước) thì họ sẽ chặn được nó lại.

– Rồi, – viên sĩ quan chỉ huy nói. – Đơn vị Brown, tôi muốn…

Sóng radio bị ngắt. – Im lặng.

Có cảm giác rằng tất cả – nghĩa là tất cả những người ngồi trong phòng hội thảo này – đều đang nhấp nhổm một cách bất an, hệt như đang xem hồ sơ của CIA thì có một cái bút bôi đen gạch xoẹt mất một dòng.

– Tôi cá là anh ta đang kiểm tra các FAE, – giọng Ana vang lên.

Ý cô ta là bom nhiệt áp. Và cô ta đang ám chỉ tới một mẩu thông tin mà chúng tôi, có thể là cả những người đang ngồi trong xe moóc, thậm chí có thể là chính Lindsay Warren – người chắc chắn đang ngồi xem từ phòng an toàn cách ly mầm bệnh ở Hyperbowl – đáng ra không được phép biết.

Trước đó, trong các buổi họp bàn về chiến dịch Con Dê, đã có không chỉ một người nhắc đến khả năng phá hủy cả thị trấn. Hình như thời buổi này, một việc như vậy có thể được thực hiện chỉ bằng một chuỗi bom nhiệt áp đặt ở các vị trí sao cho đảm bảo thiêu hủy mọi thực thể sống trong khu vực. Ana cho biết Mỹ đã làm như thế hai lần ở Afghanistan, và cả hai lần, không một hiểm họa sinh học nào lọt được khỏi các nhà máy bị tấn công. Tuy nhiên, lựa chọn này bị loại bỏ khá nhanh chóng, không phải vì vấn đề lương tâm, mà vì vẫn có khả năng Madison âm mưu cùng những kẻ khác – bất kể các phân tích tâm lý cho thấy khả năng này không nhiều – hoặc có những kẻ khác biết về hắn, hoặc hắn biết về những kẻ khác, hoặc hắn đã gửi một vài phần của công trình nghiên cứu cho những kẻ khác qua thư điện tử, hoặc những kẻ khác đã gửi thứ gì đó cho hắn, hoặc kinh khủng nhất là hắn đã bắt đầu phát tán vi khuẩn. Chưa rõ hắn lên kế hoạch tiến hành việc này như nào, nhưng có thể chỉ đơn giản là gửi các gói nhỏ đến nhiều địa chỉ khác nhau khắp thế giới.

Hai ngày trước, Ana nói với chúng tôi rằng cô ta đoán các quả bom áp nhiệt vẫn được nối mạch và đặt quanh thị trấn và rằng ai đó ở Victoria sẽ cho nổ nếu họ khẳng định rằng sự phát tán không thể kiểm soát đã diễn ra. Cô ta nói một phần lý do của sự “bỏ rẻ” này là các bị chóp bu ở Washington D.C và Ottawa – giám đốc FBI và CSIS (Cục Tình báo Canada) chẳng hạn – không muốn phải lộ diện. Nếu các chuyên gia về chiến tranh sinh học khẳng định rằng sự phát tán không thể ngăn chặn đang diễn ra thì chúng tôi nên sẵn sàng đón nhận việc cả khu vực này biến mất và hy vọng rằng nhiệt của quả bom đã diệt được phần lớn vi khuẩn. Trong cuộc hội đàm nhiều bên qua điện thoại, Micheal đã hỏi cô ta rằng vì sao cô ta vẫn còn ở đó, trong khu vực bị cho nổ, nhưng Ana bỏ qua câu hỏi. Tôi đoán đơn giản là cô ta quá nam tính để nghĩ đến những chuyện ủy mị đàn bà như tính mạng cá nhân.

Tiếng viên sĩ quan chỉ huy lại cất lên.

-…hai mươi giây. Tất cả sẵn sàng chưa?

Căn phòng chúng tôi ngồi im phăng phắc. Trên loa, chỗ Ana đang ngồi cũng không một tiếng động. Trên màn hình, căn nhà số 820 phố Marguerite vẫn bình yên. Ai đó vừa bật tiếng của chiếc micrô thu tiếng trên phố Marguerite, có tiếng bồ câu gù gù và một chút gió nhẹ thổi qua các cành cây trơ trụi, nhưng ngoài ra không còn gì.

– Khoan, chờ đã, – tiếng viên sĩ quan chỉ huy. – Tạm dừng đếm ngược.

Lại một sự im lìm. Thoạt đầu là khó chịu, rồi khó chịu hơn, rồi không thể chịu đựng được. Quanh tôi, người ta ngọ nguậy. Tôi gửi thấy mùi mồ hôi trong phòng. Có âm thanh là lạ ngay cạnh tôi và tôi nhận ra đó là răng của A2 đang va lập cập. Có nên vòng tay sang ôm lấy cô ta không nhỉ? Không, đừng. Không khéo cô ta sẽ đột quỵ nếu có thứ gì chạm vào người bây giờ.

– Cửa sổ màn hình số 6, – Ana thông báo, – không có gì đặc biệt, một người hàng xóm thôi.

Con trỏ của cô ta chỉ vào ai đó với mớ tóc đỏ lồng phồng, mặc áo choàng tắm. Đó là một phụ nữ ở nhà bên cạnh, số 818. Bà ta uể oải đi ra chỗ chiếc xe ô tô đang đậu ở lối vào nhà, chậm rãi mở cánh cửa, lục lọi tìm thứ gì đó ở ghế trước nhưng không thấy, liền lững thững vòng sang cửa ghế lái. Tôi tưởng mình sắp giật bong cả da đầu. Chỉ còn cách giờ phút quan trọng nhất của trái đất kể từ sau vụ thiên thạch Chicxulub có mười hai giây và chúng tôi đang phải chờ một bà Endora nào đó đi tìm lọ thuốc nhuận tràng của bà ta. Bà ta mở cánh cửa bên ghế lái, tìm thấy thứ cần tìm, đóng nó lại, lệt xệt kéo đôi dép lê to tướng quay vào nhà. Đến lúc này, tôi chắc chắn một người nào đó trong số chúng tôi sắp nôn, hoặc mất kiểm soát đường ruột, hay chí ít là bất tỉnh. Nhưng chẳng ai làm sao hết. Tôi đoán chúng tôi hoặc đơn giản là những kẻ sắt đá, hoặc đã dùng thuốc đủ mạnh.

Cửa nhà 818 khẽ đóng lại.

– Được rồi, – viên sĩ quan chỉ huy nói. Ngay cả giọng anh ta cũng có phần run run. – Tất cả vẫn ở nguyên vị trí chứ? Tốt. Đếm ngược lại từ đầu, hai mươi giây.

Một giọt gì đó lăn xuống má tôi, tôi nhận ra đó là mồ hôi từ chính trán mình. Tôi chùi mặt vào cổ tay áo jacket – chính là chiếc áo hiệu Varvatos màu xám tôi mặc trong chuyến đi cùng Marena và Max cách đây bảy mươi triệu năm – nhấc chiếc mũ lên, dùng tay xoa một vòng quanh mớ tóc chưa mọc và lại đội vào. Ôi giời. De todos modos.

– Bảy, sáu, – tiếng viên sĩ quan chỉ huy. – Sẵn sàng nào. Ba, hai, xuất phát.

Trên cửa sổ màn hình số 5, mười lính của đơn vị A và B lao qua bãi cỏ như bóng những con quạ bay ngang qua mái nhà. Xem ra họ đã chuẩn bị chìa khóa của cả hai cánh cửa, chúng mở ra mà không gây bất cứ tiếng động nào chúng tôi có thể nghe thấy và hai đơn vị đã lọt vào bên trong. Họ mất tròn bốn giây để ào qua sảnh, vào phòng khách, phòng ăn và lao lên các bậc cầu thang trải thảm nhựa. Hình ảnh thu từ máy quay đặt lên trên mũ của một người cho thấy lờ mờ những bức ảnh đóng khung nhựa mạ vàng trên tường: các lễ tốt nghiệp, các đám cưới và ảnh Madison nhận cúp phần thưởng ở hội chợ khoa học của trường tiểu học. Thông thường, đội đặc nhiệm làm ầm ĩ hết mức có thể khi họ ập vào nơi nào đó, nhưng cuộc đột kích này được vạch kế hoạch trên giả thiết rằng Madison có thể đang đặt ngón tay lên kíp nổ. Vì vậy, chỉ có tiếng cọt kẹt của ván sàn, tiếng ro ro của cái tủ lạnh cũ trong bếp và những cái bóng thoăn thoắt như thể căn nhà là một cái chuồng chim lớn và lũ quạ đang bay về, con nào rúc vào tổ con nấy. Các tay lính đồng loạt ập vào ba buồng ngủ. Ôi, trời ơi. Một khuôn mặt. Một khuôn mặt gớm ghiếc nhe nanh như thằng ăn cướp thình lình lao bổ vào chúng tôi trên màn hình của chiếc camera gắn trên chiếc số 6. Có tiếng thở hổn hển quanh tôi, và Lisuarte giật mình co rúm người lại. Đó là một trong hai con mèo của nhà Czerwick trong tư thế vồ. Nó biến khỏi màn hình. Khi hết giật mình, chúng tôi nhận thấy, qua camera gắn trên mũ của hai người khác thuộc đơn vị A, ông bố và bà mẹ đang bị khống chế một cách khá lặng lẽ trên giường. Một bàn tay rắn rỏi đeo găng Kevlar bịt lên miệng bà Czerwick. Trên màn hình camera số 9, họ đang khống chế thằng em trai hai mươi bảy tuổi của Madison, hắn vùng vẫy và đá chân đá cẳng nhưng vô ích. Và chiếc camera số 6, chiếc đã đụng độ với con mèo, lúc này đang ở bên trong phòng Madison, trên đó…

Hở, Madison không ở trong phòng hắn.

– Ôi, chó chết thật, – Tony Sic nói.

– Số 16, – Larry Boyle nói. Giọng hắn the thé một cách bất thường, – xem số 16.

Chúng tôi nhìn sang màn hình số 16. Đó là hình ảnh thu từ camera của một lính thuộc đơn vị C. Có cái bóng lờ mờ của các bậc thang tầng hầm, một vài hình thù sáng lên giữa một khoảng tối, và sau một vài hình ảnh khác trong chưa đến nửa giây, một chiếc sô pha hiện lên. Một bức tượng bán thân béo lùn, trần trụi ngồi trên sô pha. Một cái đầu cắm trên bức tượng. Một cái miệng rộng há ngoác nằm giữa khuôn mặt. Đó là khuôn mặt của Madison. Có tiếng động nghe như một cái loa trầm bị nổ dây loa và toàn bộ màn hình camera của đơn vị C tối sầm lại.

– Đó là NFDD, – tiếng Ana vang lên với những âm thanh rin rít hoặc rền rĩ gì đó phía sau.

– Là cái gì thế? – Michael Weiner hỏi. Bộ xử lý hình ảnh của cá camera trên mũ đã bắt đầu tự điều chỉnh và một vài hình ảnh lộn xộn xuất hiện lại trên các cửa sổ màn hình.

– Thiết bị nghi binh âm thanh và ánh sáng, – cô ta đáp. Một trong số các lính đột kích đã quăng thứ mà họ gọi là “cú đánh kép” vào tầng hầm. Đó là một vật nhìn như hai quả bóng quần màu vàng cặp vào với nhau. Một quả là lựu đạn cháy nổ thông thường với cường độ sáng tám triệu candela và tiếng nổ 180 decibel. Quả thứ hai là lựu đạn hơi cay, phát tán khoảng hai trăm hạt cao su rắn nhỏ li ti. Nó làm suy yếu đối tượng một cách an toàn hơn, nhất là khi hắn kịp nhắm mắt và bịt tai trong lúc lựu đạn nổ.

– À, phải, – Micheal đáp.

– Suỵt, chúng tôi muốn nghe đoạn này, – Larry Boyle nói.

Chúng tôi lắng tai nghe nhưng tất cả những gì nghe thấy chỉ là một tiếng ré như dê kêu. Nó lịm dần thành tiếng thở hổn hển nặng nhọc, và rồi hình như hắn đột nhiên lấy lại được giọng.

– Vụ tấn công này là sao đây? – hắn hỏi. Cái giọng nam cao của hắn rất quen thuộc với chúng tôi qua máy nghe trộm điện thoại, nhưng lại rờn rợn khi nghe trực tiếp như thế này, nhất là khi nó điềm tĩnh một cách khác thường. Các tay lính đột kích bật đèn flash và chúng tôi trông thấy hình ảnh cận cảnh chân thực bộ mặt của Madison. Tôi nghĩ hắn định nói tiếp “các ông cảnh sát?” nhưng chưa được một nửa thì mấy bàn tay đeo găng đã chẹn lên miệng hắn. Lính đột kích không được để hắn nói ra bất cứ điều gì, phòng khi hắn có công tắc kích hoạt bằng giọng nói đặt ở đâu đó. Trên các màn hình lại xuất hiện những hình thù nhiễu nhằng nhịt trong vòng hai giây, sau đó, chiếc camera thứ 13 nét dần, hiện rõ hình hai bàn tay bóp miệng Madison há ra, bàn tay thứ ba moi móc dưới lưỡi hắn, như thể hắn là một điệp viên phản gián Nga những năm 60, đang chuẩn bị nuốt một viên xyanua. Cuối cùng, họ đẩy hắn đi lên cầu thang. Trên màn hình số 5, bãi cỏ của nhà Czerwick và đại lộ Marguerite bỗng đông đặc cảnh sát trong cảnh phục đen, đột ngột đến mức tôi liên tưởng ngay tới cảnh hỗn độn trong phòng thể thao của bộ phim Bẫy chim. Ai đó bật tiếng của một chiếc camera đặt ngoài trời, có thể nghe tiếng máy bay trực thăng kêu trên đầu và còi báo động ré lên. Trong vòng chưa tới ba mươi giây, Madison đã bị trói vào một cái cáng và khiêng ra xe cứu thương dành riêng cho hắn. Chiếc xe thứ hai đã khởi hành với toàn bộ thành viên còn lại trong gia đình hắn. Tất cả chúng tôi tập trung theo dõi màn hình camera trên mũ số 13, chủ nhân của nó áp tải chiếc xe cứu thương và sắp sửa cho chúng tôi xem thêm vài hình ảnh hiếm hoi của Madison, nhưng đột nhiên nó tối đen đi.

– Chúng ta không đặt camera trong ấy à? – Michael hỏi.

– Không, đó là một trong số những hình ảnh mà họ không cho chúng ta xem, – Ana đáp, – xin lỗi.

Lại một lần nữa, thông tin đến tay chúng tôi bị cắt xén.

Đừng tự ái, – tôi tự chủ. Những gã đang ngồi trong chiếc xemoóc dành cho các VIP, các vị giám đốc ở hai thủ đô và có thể là cả Lindsay nữa, đều muốn bảo toàn khả năng bác bỏ nếu có bất kỳ sự tra tấn nào trong quá trình hỏi cung. Có lẽ sau này chúng tôi sẽ nhận được vài đoạn băng ghi hình, nhưng sẽ có những điều mà không ai ngoài cái đám ma quỷ ấy được thấy.

Dù gì cũng đừng bận tâm chuyện ấy ngay lúc này, – tôi tự nhủ. Hãy hỏi Marena khi nào cô ta quay về đây. Cô ta có sở trường moi tin từ người khác. Tôi nhìn lên màn hình số 5. Những chiếc xe đen xì, to kềnh càng, chạy trước và sau chiếc xe cứu thương chở Madison. Cảnh sát đi mô tô chạy kèm song song những chiếc xe. Đoàn xe chậm rãi chạy về phía đông dọc theo đại lộ Marguerite. Họ rẽ về phía nam, chạy vào đường Young và hướng ra quốc lộ 1.

Thế thôi à? – chúng tôi băn khoăn. Chúng tôi nhìn nhau. Dưới tầng hầm, họ đã đặt thêm năm chiếc camera điều khiển từ xa, một loạt của sổ mới hiện lên. Các nhân viên kỹ thuật rón rén xuất hiện rồi lại biến mất khỏi màn hình, rà soát khắp nơi để tìm bẫy mìn. Chiếc TV vẫn đang chiếu đoạn băng sex của dân đồng tính mà chắc chắn Madison vừa dung để thủ dâm. Không ai động đến bất cứ con chuột, bàn phím, điện thoại di động, máy tính bỏ túi, điều khiển từ xa hay bất cứ thứ gì tương tự.

– Chú ý, hai đối tượng tình nghi số một, khu vực Delta, – giọng viên sĩ quan chỉ huy.

– Nó có nghĩa là gì thế? – ai đó hỏi.

– Ý anh ta là hai chiếc tủ lạnh, – Ana trả lời, – trong ga ra. Xem màn hình số 34.

Màn hình cho thấy cảnh hai kỹ thuật viên trong bộ trang phục bảo hộ mạ crôm đứng trên mui chiếc xe tải mui trần của nhà Czerwick và khua một cái ống xịt dài về phía hai chiếc tủ lạnh cao đến hông mà theo những người hàng xóm, ông bố Madison dùng để dựng thịt thú rừng săn được vào mùa thu.

– Họ đang phun xịt chúng, – Ana giải thích, ý cô ta là họ đang phun nitơ lỏng từ xe téc. Ngay cả khi có Con Dê nào đó rò rỉ ra ngoài vỏ bọc, chúng cũng sẽ không qua được lớp băng.

– Tốt lắm, – Larry Boyle khen, – các vị làm tốt lắm.

Câm miệng lại đi, – tôi, và có thể là tất cả những người khác, nghĩ. Biến đi đâu cho rồi. Một nhóm tách ra từ đơn vị Hazmat B đang leo lên mái nhà, trải ra những cuộn vải nhựa lớn. Các đơn vị khác đang đóng những cọc thép quanh bãi cỏ. Họ muốn niêm phong nơi này, sau đó sẽ quay một khu lớn tựa như cái lều rạp xiếc phủ lên trên căn nhà và ga ra đã được bọc kỹ. Tiếp đến, họ sẽ lắp đặt một hệ thống ống dẫn và bơm đầy khí CO2 vào khoảng trống giữa ngôi nhà và căn lều. Toàn bộ không khí trong nhà sẽ được hút vào một thùng xe téc và điều áp để phân tích. Nó sẽ được thay thế bằng argon.Cuối cùng, khi áp lực trong các hệ thống dẫn hơi đã ổn định, đơn vị chuyên gia về chiến tranh sinh học có thể bắt tay vào phá hủy căn nhà. Một chiếc xe nâng hạ tiến vào ga ra, sẵn sàng chở các khối nitơ đóng băng ra xe téc kín. Như mọi đối tượng tình nghi khác, cả người lẫn vật, chúng sẽ được đưa tới khu cách ly ở Vancouver, nơi chỉ có không khí đi vào chứ không có khí thoát ra. Lúc này, đã có thêm chút ánh sáng ban ngày hòa vào ánh đèn điện. Một ngày như bao ngày khác ở Canada.

Chúng tôi ngồi uể oải. Khi chẳng còn mấy tí để xem, mọi người lần lượt lượn khỏi phòng. Michael Weiner vỗ vào lưng tôi khi lão bỏ đi, như kiểu “Làm tốt lắm, Columbo”. Vài thực tập sinh hình như chuẩn bị đi ăn mừng sớm. Số còn lại ngồi yên hoặc đứng loanh quanh trong phòng. Chúng tôi chưa tin rằng mọi chuyện đã xong xuôi nên cứ ngồi chờ có người khẳng định điều đó. Thực ra, tôi đã ra ngoài, đi một chuyến thang máy lên mé đông sân vận động Hyperbowl. Trời u ám và ẩm ướt nhưng có vẻ như cơn mưa sáng đã tạnh hẳn. Một tay lái xe buýt hỏi tôi có cần hắn đưa về khu nhà ở không nhưng tôi đáp rằng không. Từ đây về đó chưa đến hai dặm và đi bộ hết quãng đường là bài thể dục duy nhất của tôi trong thời gian gần đây.

– Này, chào anh, – A2 gọi. Cô ta chạm vào bả vai tôi. Tôi nói “xin chào”. Tôi nhìn thấy hai người nữa đang đi phía sau cô ta, cách chừng năm mươi yard,có lẽ là một trong những cái đuôi vẫn lẵng nhẵng bám theo tôi khắp nơi. Tuy đã tìm ra Madison. Nhưng sức khỏe tôi vẫn còn hơi trục trặc sau vụ dùng thuốc quá liều. Cứ kệ họ đi, – tôi tự nhủ. Họ làm thế vì mày thôi mà. Có sao đâu.

Ana muốn theo tôi vào phòng, nhưng tôi nói tôi cần đi ngủ. Cô ta liền quay về. Đó thực ra là một cô gái rất tốt. Tôi uống hai viên Valium xanh (Thuốc giảm căng thẳng thần kinh) và uể oải chui vào giường. Chết tiệt, đúng là tôi hơi mệt thật. Tôi chưa được nghỉ ngơi thực sự từ… tôi cũng không biết nữa. Từ khi học lớp tám hoặc khoảng ấy cũng nên. Tôi lơ mơ ngủ rồi thức, thức rồi ngủ trong hai mươi tiếng liền. Thỉnh thoảng, tôi lại vào kiểm tra tình hình. Không có tin gì mới. Tony Sic gửi tin nhắn trả lời rằng mọi người vẫn đang đứng quanh quẩn quanh các máy bán đồ ăn tự động, nhấp nhổm như ngồi trên kim găm, hay trên dao găm thì đúng hơn. 2 giờ 8 phút sáng, vào giây thứ hai mươi, tôi uống thêm hai viên thuốc nữa. Tôi nhớ giờ chính xác như vậy vì bốn phút sau A2 đập cửa thình thình. Ana vừa gọi điện về. Trong cuộc thẩm vấn thứ hai, Madison khai với các điều tra viên rằng từ tuần trước, hắn đã phát tán một phần tư ga-lông Brucellis, rằng những cuộc thử nghiệm trên chính người nhà và “một vài người bạn” của hắn cho thấy chúng đã đạt đến khả năng lây nhiễm như khuẩn hình que, và rằng – theo dõi diễn đạt cũ rích của hắn – mọi sự đều đã chấm dứt trừ cái chết.

70

Quán Wet Lizard thường ngày vẫn đông đúc vào bất kể giờ nào, vậy mà hôm nay, đã một giờ chiều và hai phần ba số bàn vẫn còn trống, và tôi có cảm giác người ta bắt tôi ngồi đây cả ngày để chờ hai cốc Mai Tai (Một loại cốc-tai). Tôi chưa hiểu vì sao mà Marena muốn gặp tôi ở đây, ngoại trừ việc nơi này gần sân bay Belize City. Chắc cô ta muốn dỗ ngọt tôi lên máy bay và đưa về Stake. Tôi ngồi bên chiếc bàn lung lay kẽo kẹt, bé quá thể, trên ban công tầng hai, nhìn xuống đường Fort và cố đoán xem chiếc nào trong số những chiếc ô tô đang đậu là của đám nhân viên ES đang bám đuôi tôi. Xin đánh cuộc là chiếc Econoline sản xuất khoảng năm 1980 kia, – tôi nghĩ. Vỏ xe bẩn thỉu tã nát nhưng kính cửa sổ thì mới và được nhuộm màu sắc nét. Ở quầy bar dưới tầng một không khéo còn vài gã nữa, phòng khi tôi tẩu thoát bằng hai cẳng. Mình nên chụp vài cái ảnh và kiểm tra xem chúng là ai, – tôi tự nhủ. Nhưng mà ai quan tâm chúng là ai cơ chứ? Thật đấy. Lindsay đã đổ hàng đống tiền vào tôi. Nếu ông ta cần cái cảm giác đang bảo vệ khoảng đầu tư của mình thì kệ ông ta. Tôi cúi nhìn màn hình chiếc điện thoại mới. 1 giờ 39 phút chiều. Màn hình nền – ừ thì nó cũng quá bé để cũng được gọi là màn hình nền nhưng chắc các bạn hiểu ý tôi – là bản phục chế mới của bức bích họa tróc lở mà chúng tôi nhìn thấy tại lâu đài ở phế tích Ix, chính là bức vẽ những con dơi và một người đang leo lên kim tự tháp Nữ thần Cốc Đất. Michael đã sử dụng thiết bị tái tạo hình ảnh để xử lý bức tranh và trông nó gần như mới, tuy nhiên vẫn khó phân biệt được cái gì là cái gì. Một con ong bắp cầy chuyên ăn ve sầu bậu lên màn hình. Tôi nhấn nút cho máy rung và con vật bay đi, biến vào không trung ẩm ướt. Mưa vừa tạnh và lúc này, khi mặt trời ló ra, nó như đang được tắm hơi. Môi trường thật thuận lợi cho loài vi khuẩn mới sinh sôi, – tôi nghĩ thầm.

Chỉ có điều chuyện đó vẫn chưa xảy ra. Đến hôm nay – ngày 28 tháng 3 – sự thật đã khá rõ ràng là Madison chỉ nói phét khi khai hắn đã phát tán Con Dê. Thứ nằm trong tủ lạnh là vi khuẩn thật. Nhưng câu chuyện của Madison thì cứ thay đổi xoành xoạch. Đầu tiên hắn khai vi khuẩn đã được phát tán, sau đó lại nói hắn có những kẻ đồng mưu đang cùng lên kế hoạch phát tán nó, rồi lại nói hắn đã gửi nó đi trong các gói hàng kèm theo bom không tỏa nhiệt, được hẹn giờ nổ vào một thời điểm nào đó trong tháng 11. Nhưng – theo những gì chúng tôi được biết qua các mẩu quảng cáo cụt lủn của DHS – họ càng tra khảo hắn thì càng thấy ít có khả năng những chuyện đó là thật. Con Dê dù sao cũng không thể sống được lâu nếu không chăm sóc. Và dựa trên lượng colloid và các chất cần thiết khác mà hắn đã mua thì đến ngày tiến hành vụ đột kích, hắn vẫn còn có đủ số vi khuẩn đã nuôi cấy. Ngoài ra, cờ Hiến tế cũng ủng hộ giả thuyết của DHS. Nghĩa là, các ván cờ – hai ván của tôi và một lô các quán khác của Tony và những người khác – tiên đoán rằng Con Dê chưa lọt ra ngoài và có thể là không bao giờ lọt được ra ngoài.

Và, liên quan đến ngày Chúa tể 4… hừ, chuyện này thì hơi kỳ quặc… đến lúc này, điều duy nhất Madison khai về việc vì sao hắn chọn ngày đó là “thiên hạ mê mẩn cái vụ 2012 ấy, tôi chỉ cho họ thứ họ muốn”. Mặt khác, hắn không nói bất cứ điều gì liên quan đến Maya. Hoặc nếu có thì lũ ma mãnh kia cũng không cho chúng tôi biết. Tôi nhấp thêm một ngụm espresso. Hừ. Tôi đổ ít rượu rum vào tách, móc trong túi đeo hông ra một viên kẹo dẻo nhỏ, thả vào, khoắng tất cả lên và làm một ngụm nữa. Ngon rồi.

Tiên sư cái thằng Madison. Như thế này chưa đủ để hắn trở thành người vô dụng nhất mọi thời đại, vì tuy không đạt được mục tiêu lớn nhất nhưng hắn cũng cho tất cả chúng tôi – “tất cả” ở đây bao gồm hai hoặc tối đa là ba trăm người biết về Con Dê – vài ngày khó tiêu chỉ vì vắt nốt tí thành thật từ người hắn nếu còn. Đồ chuột bọ.

Thôi, ít nhất thì họ cũng tóm được hắn, – tôi nghĩ, không biết là lần thứ bao nhiêu. Vì tôi là “tôi” nên tôi vẫn kinh ngạc trước sự tình làm sao mà chính phủ, hay đúng hơn là hai chính phủ – những kẻ mà người ta hiển nhiên coi là hầu như làm gì cũng sai – lại làm ăn khá khẩm thế. Tuy họ cũng chẳng thể tìm thấy hắn nếu không có chúng tôi. Mặt khác, họ nói rằng vụ Madison phải được giữ bí mật – có lẽ là vĩnh viễn – để tránh nảy sinh những vụ tương tự. Trái với tính cách thường ngày, tôi gần như tán thành việc này. Hay chí ít tôi cũng muốn suy nghĩ trước khi loan báo bất cứ chuyện gì. Hiển nhiên, nếu họ muốn giữ bí mật chuyện đó thì cũng có thể họ sẽ khử tất cả chúng tôi, nghĩa là tất cả những ai biết về Madison và những việc liên quan. Chân lý lâu đời về sự hoang tưởng là hoang tưởng không có nghĩa rằng điều đó không xảy ra, rằng họ không muốn tóm anh. Vì thế, đương nhiên tôi muốn rời khỏi Stake một thời gian. Có lẽ tôi sẽ sử dụng nhân dạng của Martin Cruz trong một thời gian, sau đó sẽ chuyển sang dùng một trong những nhân dạng khác của Jed… hừm. Tôi nhìn quanh. Không có ai.

Hừm.

Thật kỳ cục, sự thật là trái đất sẽ tiếp tục quay trong một thời gian nữa lại khiến tôi gần như vỡ mộng, sau tất cả…

– Chào anh, – tiếng của Marena.

Cô ta đội chiếc mũ kiểu cầu thủ bóng chày hiệu Magic, một mảnh vải che bên dưới và một mảnh che bên trên. Cô ta có phần bớt mảnh khảnh và trắng ra, nhưng khỏe khoắn hơn.

– Chào em, – tôi đáp giọng oang oang, hỏng cả cái ý định tỏ vẻ thờ ơ. Tôi đứng lên. Cô ta hôn tôi nhưng gần như hôn không khí.

– Nehmen Sie Platz (xin mời ngồi – tiếng Đức), – cô ta nói, – quý ngài Jed.

Tôi ngồi xuống. Cô ta cũng ngồi. Bên phía bàn cô ta có một hộp xì gà Cohiba Pyramides – tôi chưa tìm được vị Maximón nào ở đây – tôi kéo một chiếc ghế lại gần và đặt nó xuống đấy.

– Nhìn em khỏe nhỉ, – tôi nói, – khỏe hơn lúc trước.

– Cảm ơn anh.

– Ừ, – im lặng một lát. – Này, em muốn thử… À,… Kon-Tiki Zombie (Thây Ma Kon-Tiki, tên lóng của một loại đồ uống) không? Anh đoán nó là rượu cốc-tai đựng trong vỏ quả mít, với cái ô cắm bên trên và khối đá khô.

– Ý anh là người ta có thể dọn cho em món thây ma à?

– Hay là… Ờ…

– Xin chào, mừng các vị đến với Wet Lizard, – cô gái phục vụ bàn cắt ngang, – hôm nay chúng tôi giảm giá đặc biệt cho Mai Tai Bikini Atoll, pha bằng rượu rum dừa của quán…

Marena đưa tay chặn lại.

– Cho xin một chai Fiji và một ly Glen Moray. Cảm ơn.

Người phục vụ bàn quay đi.

– Max dạo này thế nào? – tôi hỏi.

– Nó bảo trường mới nghệ sĩ quá.

– Nghệ sĩ?

– Họ bắt lũ trẻ làm tiêu bản trái cây, làm hoa giả bằng quả thông và những thứ khỉ gió tương tự.

– Nghe như ở địa ngục ấy nhỉ.

– Phải, nhưng nó vẫn làm tốt. Nó gửi lời chào anh đấy.

– Chào lại nhé, Maximum.

– Của chị đây.

Cô gái phục vụ bàn đã quay trở lại với rượu whiskey và nước.

– À, em ăn bánh không? – tôi hỏi.

– Không, em không đói lắm, – Marena đáp.

– Anh cũng thế. Xin lỗi chúng tôi không dùng.

Cô gái phục vụ bàn quay đi. Marena nhìn xuống phố. Một chiếc BMW X1 SUV màu nâu sẫm đậu bên lề phải đường, không xa chiếc Econoline.

– Xe em đấy à? – tôi hỏi.

– Vâng, – cô ta quay lại nhìn tôi và ngã người vào thành ghế.

– Em không hút thuốc à?

– Không, từ hôm xảy ra vụ Madison.

– Tốt đấy.

– Nhưng em có kẹo nicotne. Anh ăn không?

– Ồ, không. Cảm ơn. Em ăn kẹo dẻo không?

– Anh biết đấy, em không muốn báo cho anh biết điều này, nhưng đa phần người ta không thích kẹo dẻo lắm. Ít ra là không ăn trực tiếp từ trong bao.

– Không á? Họ bán được cả tấn thứ này đấy.

– Đấy chỉ là để… thôi, đừng bân tâm.

– Em nghĩ…

– Vậy là anh vẫn… xin lỗi. Anh định nói gì à?

– Sao cơ? à, xin lỗi. Không có gì đâu.

– Không, anh cứ nói đi.

– Không, anh không định nói gì cả. Em định hỏi gì à?

– Chỉ là, anh vẫn làm việc ở đó chứ?

– Ừ, vẫn, – tôi đáp, – anh chỉ đang nghỉ ngơi một thời gian thôi.

– Này, em biết nó không hẳn là kỳ quan gì, nhưng nếu anh có thể đến xem cái này thì cũng hay lắm.

– Ở Stake à?

– Phải. Ở khu liên hợp thể thao Olympic. Không có gì đặc biệt đâu, chỉ là Lindsay tổ chức cắt băng khánh thành Hyperbowl.

– Thế à? Đã hoàn thành rồi kia à?

– Chưa, nhưng họ đang quay vài thước phim gì đó cho ủy ban Olympic Quốc Tế nên em đoán ông ta muốn phô trương thêm một tý.

– Ừ, anh sẽ sớm về xem, – tôi đáp. Hừm. Cô ta thực sự muốn mình về Stake à? Nghĩa là cô ta muốn mình cùng về để tiếp tục hẹn hò? Hay chỉ để họ canh chừng mình? Cuộc nói chuyện này có gì đó không ổn. Có sự lúng túng ngần ngại gì đó. Có lẽ mình nên đồng ý theo cô ta về. Chỉ có điều, nếu cô ta thật sự muốn mình như thế, cô ta sẽ khều chân mình dưới gầm bàn hay gì đó. Có phải vậy không? Mẹ kiếp, chẳng khác gì hồi còn học tiểu học, với cái đống rắc rối về các loại quan hệ. Đó là lý do vì sao tôi lại ghét chuyện giữa hai ng…

– Ngoài ra, anh biết đấy, Lindsay đang tác động để họ rút binh lính khỏi Ix, – cô ta nói, – như vậy họ sẽ sớm mở cửa cho chúng ta quay lại, thậm chí một cách hợp pháp.

– Thế à? Ngay cả khi chiến tranh với Belize vẫn tiếp tục?

Theo CNN, đến sáng nay, họ vẫn tiếp tục nã pháo vào nhau qua sông Sarstún.

– Larry nói với em thế, – cô ta đáp. – Cũng phải thôi, giờ chúng ta đang là người hùng mà.

– Ừ, dĩ nhiên anh sẽ có mặt ở đó.

– Vậy thì tốt quá.

Tôi uống xong tách cà phê tự pha chế. Tôi xoay người trên ghế và nhìn quanh. Marena cũng xoay người trên ghế và nhìn quanh. Tiếng sủa nghe quen quen của một con chó vọng đến từ đâu đó. Ngày trở nên nồm nực và ngột ngạt.

– Vậy anh có dự định gì chưa? – cô ta hỏi. – Về lâu đài ấy?

– Anh chưa biết. Hôm nay anh mua bán thêm vài hợp đồng ngô giao sau. Anh còn phải qua bài sát hạch môn cờ vây và kiếm thêm hai tỉ đô la.

– Còn việc tham gia vào ngành du hành xuyên thời gian thì sao?

– À, anh nghĩ anh sẽ chờ thêm một thời gian, như vậy anh có thể sớm tham gia hơn.

– Vâng, phải đấy.

– Ừ, nhưng em biết đấy, nếu chuyện đó sẽ xảy ra thì bây giờ chúng ta đã biết rồi.

– Nghĩa là sao?

– Nếu có bất kỳ chuyến du hành xuyên thời gian nào đáng kể, vào bất kỳ thời điểm nào trong tương lai, thì bây giờ đã có những vị khách từ tương lai xuất hiện ở đây và chúng ta đã biết.

– Có lẽ chỉ vì nó quá đắt đỏ chăng?

– Ừ, nhưng em biết đấy, TV cũng từng là thứ đắt đỏ. Việc tạo ra một hố giun có thể đắt đỏ ngày hôm nay, nhưng hai mươi năm sau, nó sẽ rẻ đi và mọi người điều muốn thử. Công nghệ phổ cập dần mà.

– Ờ… có lẽ… có lẽ họ đã đến rồi, nhưng họ không được phép cho ai biết điều đó.

– Sao lại không? Chẳng tốt hơn ư nếu họ có thể bảo cho chúng ta biết nên coi chừng điều gì?

– Nhưng Taro đã nói, anh biết đấy… ông ta chưa giải thích rằng anh không thể làm những việc như thế vì… vì vấn đề ông chú gì đó à?

– Nghịch lý ông nội.

– Phải rồi.

– à, có, ông ta có nói, – tôi đáp. – Nhưng em biết đấy, càng đi xa về quá khứ thì vấn đề đó lại càng ít gây trở ngại. Vì thế, những người ở cách chúng ta rất, rất xa về mặt thời gian, họ có thể quay về đây mà không gặp mấy rắc rối.

– Có lẽ, việc chiếm dụng bộ óc của người khác là bất hợp pháp trong tương lai. Vì nó căn bản là tội giết người mà, phải không?

– Cố nhiên, nhưng anh không nghĩ… ý anh là, ngay cả khi có luật cấm hoàn toàn việc đi ngược thời gian và tẩy não người khác, ngay cả khi nó bị coi là tội giết người thì những chuyện đó cũng không bao giờ cản được người ta. Đúng không nào? Nhất là khi đằng nào họ cũng nằm ngoài tầm với của pháp luật. Họ sẽ ở quá khứ mà.

– Em cũng đoán thế, – Marena đáp. Cô ta dốc nửa ly Scotch vào miệng. Tôi bắt đầu để ý thấy tiếng còi xe. Tôi tự hỏi không biết nếu đấy là tiếng chim thì người ta có thấy nó hay hơn không. Chắc là không.

– Hoặc họ chỉ cần chiếm bộ óc của những người sắp chết, rồi giúp gia đình họ… không, anh không nghĩ vấn đề nằm ở chỗ họ không có cách xoay sở.

– Vậy anh vẫn nghĩ họ không đến đây vì không có tương lai?

– Ờ… anh không biết nữa.

Cô ta hớp một ngụm Fiji. Không ai nói gì một lúc lâu.

– Xin lỗi, em đang nghĩ đến Max à?

– Phải.

– Chắc phải có một cách giải thích khác hợp lý hơn. Có thể lắm. Anh xin lỗi.

– Không, em xin lỗi, – cô ta đáp, – em hơi quá đà về vấn đề con cái.

– Thế là tốt mà. Điều đó đáng tự hào.

– Anh biết đấy, – cô ta nói, – khi anh có một đứa con thì nó là vô giá. Nếu ai đó… như người ngoài hành tinh hay Chúa trời chẳng hạn… đến nói với anh rằng: “này, nếu ngươi trao đứa con cho ta, ta sẽ chữa khỏi bệnh ung thư, sẽ cho tất cả cuộc sống vĩnh cửu, sẽ xóa hết mọi đau khổ trên đời”, thì anh cũng sẽ trả lời rằng “không, cảm ơn”.

– Phải, – tôi đáp.

– Đó là sự thay đổi về mặt hóa học. Anh sẽ trở thành một phương thức hỗ trợ sự sống cho đứa con.

– Như vậy cũng tốt, – tôi nói. – Dù sao anh cũng rất tiếc đã nhắc đến chuyện ấy.

– Không, không sao đâu, – Marena đáp. Cô ta đã uống cạn ly Glen Moray.

– Có lẽ một ván cờ Hiến tế theo đúng kiểu cổ xưa sẽ cho chúng ta manh mối về việc đó, – tôi nói.

– Phải. Nhắc đến chuyện này, vẫn còn nhiều việc phải dùng đến cờ Hiến tế. Phải không? Madison không phải là kẻ cuối cùng tin vào ngày tận thế.

– Đúng vậy.

– Anh cần tiếp tục nghiên cứu nó. Giống như trong câu chuyện của Philip Dick, với Cục ngăn ngừa tội phạm.

– Bắt buộc à?

– Ờ… em biết bây giờ em không phải sếp của anh. Nhưng ý em là, anh biết đấy, anh giống như James Bond ấy, chỉ có điều không phải rời khỏi văn phòng.

– Cảm ơn.

– Xin lỗi.

– Không sao, anh chỉ muốn nói rằng… em cũng biết mà, anh không còn là người duy nhất, – tôi nói, – ý anh là, anh nghĩ Tony và những người khác, họ tiến bộ nhiều lắm… nên em biết đấy, họ có thể lo việc ấy.

– À há.

– Cả LEON cũng tiến bộ, – tôi nói tiếp, – vài năm nữa cổ máy đó có thể tự vận hành. Chúng ta thậm chí sẽ chẳng biết nó đang làm gì, ý anh là nó sẽ trở nên phức tạp đến mức con người không thể kiểm soát nổi.

– Vậy ra chúng ta chỉ cần trông cậy vào LEON?

– À, đó lại là vấn đề khác.

Tôi nhìn quanh. Nắng bắt đầu gay gắt. Trong một con hẻm nào đó ngoài kia, có kẻ đang nôn mửa ầm ĩ.

– Thành phố này hơi nhàm chán với một người cừ khôi như em nhỉ? -tôi hỏi.

– Ừ, nó cũng làm anh phát ngấy sau một thời gian, phải vậy không?

– Sau mười giây.

– Vậy sao anh còn ở đây?

– Anh không giỏi giang gì.

Im lặng. Tiếng nôn cũng im dần.

– Này, – Marena nói, – em muốn gặp riêng anh vì em vừa phát hiện ra vài điều không hay lắm và anh sẽ nổi giận.

– Không sao đâu, em đừng lo chuyện đó.

– Nhưng anh có quyền nổi giận. Anh đã bị lừa một cú thật sự.

– Như thế nào? Cá là anh sắp bị bắt.

– Không, không phải thế… anh nghe đây, anh biết cái… cái nón thuốc tạo chớp máu ấy, nó có hai thành phần và một trong số đó là thành phần khiến người ta mất cảm giác về không gian, thứ có tên nghe như kem bôi sau khi cạo râu ấy?

– Người Chèo Xuồng Già.

– Phải, em đã tìm hiểu một chút về nó.

– Ừ?

– Và… và… người của phòng thí nghiệm Lotos không… ý em là người ta đã nói với cả anh và em những điều khác với sự thật.

– Là điều gì?

– Nó không chỉ là một hóa chất.

– Vậy nó là gì?

– Ký sinh trùng.

Im lặng.

– Xin lỗi, em nói gì cơ?

– Nó là một sinh vật, nó tạo ra một hoạt chất kích thích thần kinh nào đó… tương tự như bệnh của loài sên bị nhiễm ký sinh trùng trong mắt ấy, anh biết đấy, chúng khiến cho những con sên leo cao lên chỗ dễ bị chim ăn thịt.

– Trùng Leucochloridium.

– Đúng rồi. Hoặc như… anh cũng biết đấy… như thứ khiến cho con chuột hết sợ mèo

– Toxoplasmosis,

– Đúng rồi. Đó là lý do vì sao thứ thuốc ấy phải ở dạng lỏng, thực ra là có những sinh vật bé xíu bơi trong đó.

– À… ra thế, – tôi đáp. Tôi hơi chóng mặt một tí nhưng chắc là không run ra mặt.

– Và đó cũng là lý do vì sao họ mất nhiều thời gian đến thế, họ phải tạo ra chúng bằng cách nhân bản vô tính từ thứ gì đó.

– Được rồi, này, chúng… Ờ… chính xác thì chúng là thứ gì?

– Những con vật ấy á?

– Ừ, chúng là sán lá, hay sinh vật đơn bào, hay…

– Em không biết.

Cô ta nhìn vào mắt tôi. Tôi nhìn lại. Cô ta cuối xuống.

– Sao họ không tách hoạt chất đó ra và cho ta uống phần đó thôi?

– Em không biết, – cô ta đáp. – Em đoán là việc đó sẽ mất quá nhiều thời gian, hoặc họ không xác định được nó gồm những chất gì, hoặc nó phải được kết hợp với các chất truyền dẫn thần kinh ở người, hoặc… em cũng không biết nữa. Anh thạo những vấn đề kiểu này hơn mà…

– Được rồi, vậy triệu chứng chúng gây ra là gì? Vòng đời của chúng thế nào? Tác hại tức thời và lâu dài như thế nào? Dự đoán…

– Họ nói đang nghiên cứu phương pháp chữa trị.

– Chữa trị hay điều trị tạm thời? Bện sốt rét còn chưa có cách chữa trị nữa là.

– Có lẽ chỉ là điều trị tạm thời thôi.

– Chết tiệt.

– Nếu anh có thể kiềm chế cơn giận… em không biết anh muốn làm gì, nhưng em sợ anh sẽ cố tra hỏi Lisuarte hay gì đó.

– Gợi ý hay đấy.

– Nếu anh có thể kiềm chế, ngay khi về đến đó – ý cô ta là Stake – em sẽ tìm hiểu mọi điều có thể và gọi cho anh…

– Em sẽ làm họ lo lắng đấy.

– Không đâu. Cứ tin em.

– Thế Ashley 2 và những người khác cùng uống thuốc thì sao?

– Em không biết. Em sẽ tìm hiểu. Chúng ta sẽ tìm hiểu và thu thập mọi bằng chứng có thể, và em sẽ mang nó đến chỗ Lindsay, em chắc ông ta không biết chuyện này vì lũ người kia đang cố bưng bít ông ta, sau đó, anh và em sẽ cùng giải quyết việc này. Nhưng em vẫn thấy thực sự có lỗi.

– Đừng xin lỗi. Chúng ta sẽ giải quyết được thôi.

Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt, – tôi nghĩ thầm, – mình bị lừa một vố nặng quá thể. Chúng thực sự cho mình một cú, đám… đám người ấy… mình sẽ… sẽ.

– Xin lỗi anh.

– Không sao đâu.

Im lặng.

– Nhưng nhìn anh vẫn khỏe lắm, – Marena nhận xét. Câu nói kết thúc với một nốt trầm ở cuối nghe như bị buông lửng.

– Em phải đi à?

– Vâng, em chắc họ đổ đầy xăng cho xe em rồi.

Bình tĩnh nào, – tôi tự nhủ – quên chuyện này đi. Đừng biến mình thành thằng ngớ ngẩn. Cô ta đang bận. Cô ta có việc phải làm. Cô ta có đứa con. Cô ta có cả một đế chế để cai trị. Cô ta phải rán diều và thả cá. Cô ta là người quan trọng. Cô ta kín lịch rồi. Cô ta sống sành điệu mà.

– Này , anh có chắc là anh không sao không? – Marena hỏi.

– Anh ổn mà, – tôi đáp, – anh có thể đứng lên và đi khỏi đây bất kỳ lúc nào.

– Hài hước đấy.

Như người ta có thể đoán trước, lại thêm một vài phút im lặng lúng túng. Tôi đang ngửi thấy mùi bãi nôn ở ngoài đường bay vào hay chỉ là tưởng tượng?

– Anh thấy hơi khó xử, – tôi nói.

– Em xin lỗi, – cô ta nói và nhìn xuống mặt foóc-mi-ca xanh của chiếc bàn.

– Không sao đâu.

Chết tiệt, Jed. Mày cứ việc ngả người về phía cô ta, duỗi chân ra mà bảo cô ta rằng “Cứ nói toẹt ra đi”. Mày đúng là thằng hèn. Thằng ngố, thằng đần…

– Thế này, – Marena nói, – còn một việc nữa. Em không định nói ngay lúc này, nhưng em nên cho anh biết là em đang nghĩ đến chuyện kết hôn. Tái hôn.

Im lặng.

– Hẳn là ai đó khác chứ không phải anh.

– À, vâng. Vâng. Anh không biết anh ấy. Đó là một người hàng xóm ở Woody Creek.

– Hừ. À, à… chúc mừng em.

– Đừng nói thế. Anh nghe này, anh biết đấy… em nghĩ… vấn đề là… em nghĩ chuyện giữa anh và em rất tuyệt. Nhưng em không nghĩ anh là người thích ổn định. Phải thế không?

– Ờ… Ừm… không, anh ổn định… ý anh là anh không phải là người thích ổn định, không đâu.

– Phụ nữ cần cuộc sống ổn định, – cô ta nói. – Em biết điều này kỳ quặc nhưng nó là một giai đoạn của cuộc sống. Thì con gái rất ngắn ngủi và cái ngày tận thế kia chỉ làm nó thêm… ý em là, phụ nữ cần điều ngu xuẩn ấy… anh biết đấy, họ chẳng quan tâm gã lấy mình là ai, miễn sao hắn mặc quần đùi kaki và… và quan tâm huấn luyện đội bóng của Max, thức ban ngày và ngủ ban đêm… và tẻ nhạt… dù sao, anh hiểu tất cả những chuyện này mà.

– Tẻ nhạt là hay à?

– Phải, với phụ nữ ở một độ tuổi nhất định, đàn ông tẻ nhạt là điều tốt.

– Ừ.

Ngu xuẩn làm sao, tôi thấy người nhẹ bẫng một cách khó chịu. Và có lẽ vì việc của Marena nhiều hơn là vì chuyện của tôi vừa biến thành một vật chủ nuôi ký sinh trùng.

– Dù sao… anh cứ rời khỏi nơi này và chúng ta sẽ nói chuyện khi nào có thời gian. Được không?

– Ừ.

– Anh ổn không?

– Anh ổn mà.

– Rồi , em phải đi đây. Em thề sẽ xử lý tốt việc này. Gọi điện cho em nhé.

– Anh sẽ gọi.

– Mai nhé. Em nói thật đấy.

Cô ta đứng lên.

– Anh sẽ gọi.

Tôi đứng lên.

Cô ta hôn tôi lần nữa. Tôi hôn lại, không nhiệt tình lắm. Cô ta quay đi và bước vào trong quán. Tôi nhìn qua ban công.

Quỷ tha ma bắt thật, -tôi nghĩ.

Chuyện là, khi mới gặp Marena, tôi nghĩ cô ta đến từ một hành tinh nào đó trong lành hơn và tốt đẹp hơn, gần với cái tâm tưởng tượng sáng lấp lánh của vũ trụ. C̣n tôi th́ “thôi đừng có mơ tưởng hảo huyền đi Jed, cả tỉ tỉ năm nữa mày cũng không bằng được đâu”. Rồi sau đó tôi lại thấy, dưới cái vẻ ngoài hào nhoáng, hóa ra cô ta hơi có phần giống tôi, và chúng tôi đâm ra hợp nhau, mọi sự hững hờ điều là đóng kịch. Nhưng bây giờ, khi cô ta quay lại với thái độ hờ hững thì tôi lại nghĩ có khi sự hòa hợp mới là đóng kịch. Hoặc cả hai điều là đóng kịch và cô ta chỉ diễn sự hòa hợp trong những màn đặc biệt và bắt buộc. Đồ phù thủy. Mày cần… A, cô ta kia rồi.

Cô ta đã ra đến cửa dưới tầng một, cách chân tôi hai mươi feet, và đi bộ ra đường Fort. Cô ta không buồn ngoái nhìn lên đây. Ấy không, có, cô ta có nhìn. Cô ta vẫy tay. Cô ta quay đi và chui vào ghế sau chiếc X1. Chiếc xe chạy đi. Tôi ngồi lại xuống chiếc ghế bé tẹo và bất tiện.

Hừ, cái thứ này… bất tiện đến không thể chịu nổi – tôi nghĩ.

Bướm đêm thì được.

Mẹ kiếp.

Tôi bắt đầu nhớ lại -một cách ngu xuẩn, quá quắt nhưng không thể xua đi được – lúc tôi ngồi đọc sách còn Marena thì nằm ngủ. Chuyện xảy ra sau vụ rắc rối với chiếc Hippo và trước khi chúng tôi đi khai quật những viên đá nam châm xếp hình chữ thập. Trong giấc mơ, con ngườicô ta động đậy dưới mí mắt. Cửa sổ đang mở và một con bướm ma khá to bay vào trong phòng, lượn quanh màn hình điện thoại của tôi rồi đậu lên trán cô ta.

– Nhện, – cô ta kêu lên, không buồn tỉnh dậy nhưng hơi hoảng hốt, – xua nó đi.

– Chỉ là một con bướm đêm hiền lành thôi mà, – tôi thì thào vào tai của cô ta.

– À , – cô ta nó bằng cái giọng lơ mơ như đứa bé gái đang ngái ngủ, – bướm đêm thì được. Hiền lành thôi.

Cô ta giở mình về phía tôi, tôi có cảm giác như mình có một đứa con gái nhỏ, một người hoàn toàn tin cậy mình…

Mẹ kiếp.

Mày được nếm vài lần thân mật, và khi mọi sự quay trở lại với cuộc sống bẩn thỉu đời thường, mày lại khổ sở vì không thấy sự thân mật ấy nữa, và lại cố tìm kiếm, và lại để cái vòng ấy lặp đi lặp lại, hết lần này đến lần khác mà chẳng rút ra được điều gì. Trên đời có hai thứ là “thân mật” và “lạnh nhạt”, và giữa chúng có một khoảng cách lớn vĩnh viễn không bao giờ xóa nhòa được, và mày thì cứ… Chết tiệt. Mày biết hết về con người đó, biết cô ta lên đến đỉnh thế nào, biết cô ta ngủ như thế nào, nhưng đến sáng ra, cả hai lại chỉ là một cặp cùng qua đêm bẩn thỉu, và mày ghét bản thân, ghét cả hai vì điều đó. Mày là thằng ủy mị. Mày còn muốn gì nữa nào? Mày muốn đi cùng cô ta về phía mặt trời lặn trong chiếc xe màu hạt dẻ ấy à? Đây chỉ là một vở kịch diễn chín đêm thôi. Hay tám?

Có lẽ mình nên quay về đấy, – tôi nghĩ. Biết đâu cả hai sẽ quay về nếp sống cũ. Làm hai kẻ đồng nghiệp xấu xí, nhàn rỗi và xa lánh thiên hạ. Một ngày nào đó mày sẽ lại như xưa. Chẳng có chuyện gì ghê gớm cả. Thời gian này mọi chuyện chỉ hơi đảo lộn một chút thôi, cô ta sẽ tống cổ cái gã Woody…

Chẳng có chuyện ấy đâu. Đừng tự lừa dối mình. Cô ta chỉ làm thế để mày dốc sức ra mà làm việc thôi. Hãy xung phong nhận nhiệm vụ tự sát này đi và anh sẽ được hưởng đêm cuối cùng trước khi lên đường với hoa hậu Seoul. Mày chẳng qua là thằng nô lệ.

Và điều tồi tệ nhất trong chuyện này là nó diễn ra như một lẽ tất yếu. Một tí vui vẻ ngu xuẩn, những cảm xúc ngu xuẩn và cuộc nói chuyện cuối cùng, lúng túng nhưng không thể tránh được. Tất cả đều xưa như trái đất và chẳng có gì đặc biệt. Mày còn tệ hơn cả một thằng hư hỏng, tâm thần không ổn định và bán tự kỷ. Mày là kẻ tầm thường. Dù có tài giỏi hay không tài giỏi. Có tiền hay không có tiền. Biết chơi hay không biết chơi cờ Hiến tế.

Vả lại, khi mày chơi cờ Hiến tế, có phải mày chơi đâu. Nó chơi mày thì có. Cũng như cô ta. Cũng như kẻ khác.

Thằng bất tài.

Tôi bỏ mũ ra và lau mồ hôi dính trên nẹp. Những cơn gió plasma lạnh ngắt từ ngoài vũ trụ thổi qua đầu tôi. Hừ, có khi mày chỉ đáng được thế thôi, – tôi nghĩ. Mày thậm chí chẳng giỏi giang gì với món cờ Hiến tế. Mày còn chẳng chơi được với chín quân cờ, ngay cả với sự hỗ trợ của máy tính có bộ não to bằng tinh văn Orion. Mày thậm chí còn chẳng chơi hết được một ván với tám quân cờ.

Tôi lại chụp mũ lên đầu.

Mẹ kiếp.

Mà ruốt cuộc nó là cái khỉ gì cơ chứ?

Hừ.

Chỉ là một trò chơi thôi mà, – tôi nghĩ. Nửa giờ đồng hồ. Chỉ việc tìm ra vị trí cuối cùng. Có gì to tát đâu. Mình có thể dừng bất kỳ lúc nào nếu không thích nữa. Cố lên, hãy đặt mục tiêu cao hơn một chút. Tôi dứt hai mẩu thuốc lá đựng trong chiếc túi nhỏ bên túi đeo hông bên kia và cho vào miệng, nhai nát thành một miếng lớn. Xong. Tôi đứng dậy, đi vào trong quán, qua một quầy bar huyên náo ở tầng hai, xuống cầu thang, vào phòng vệ sinh – trên cánh cửa có dòng chữ DÀNH CHO NHỮNG THẰNG HƯ HỎNG – và tiêm vào người một trong bốn ống thuốc mà tôi dành dụm được. Tôi nhè miếng bả thuốc ra. Giời ơi, mình tởm quá, – tôi nghĩ. Cái thói quen ngu xuẩn này. Chỉ có bọn nhà quê mới nhai thuốc lá. Tôi bôi nước thuốc vào vết thâm trên đùi, đứng thẳng dậy, vuốt nước lên mặt và quay về bàn.

Tôi mở điện thoại. Bức bích họa của thành Ix vẫn ở đó. Khỉ thật. Cái gì thế kia nhỉ? Sên à? Rết à? Hay cả hai? Hay chẳng phải con nào hết. Hừ, Mặc xác. Tôi bấm vào chữ CỜ HIẾN TẾ. Bàn cờ hiện ra. Để không có cảm giác bị phụ thuộc, tôi ngắt kết nối internet. Đằng nào tôi cũng không cần đến nó lần này. Tôi đã nắm khá rõ chuyện gì đang xảy ra ngoài kia. Tôi rõ các thông tin như trong lòng bàn tay. Quá nhiều thông tin. Cái khó là làm sao để xác định được sức mạnh tương quan giữa các thông tin với nhau. Chẳng hạn như “có một con ong bắp cày bậu trên thành ly rượu rum của tôi” và “Vũ trụ chứa 4 x 1029 nguyên tử” đều là thông tin cả, nhưng một cái quan trọng hơn hẳn là cái kia, tuy tôi không khẳng định là cái quan trọng hơn là cái nào.

Tôi bắt đầu cảm thấy những cơn rung xuất phát từ đùi trái, lan xuống bàn chân và lên háng.

– Đây là lúc đốt ruộng, là lúc dọn quang, – tôi lầm rầm. Tôi không cần đi đến vị trí cuối cùng trong ván chơi trước, ván giúp tôi tìm ra Madison, Tôi thậm chí không chắc vì sao tôi muốn quay lại chơi nốt ván đó, có điều, người ta luôn muốn thử chơi lại nước quyết định để xem rốt cuộc ai thắng. Bất kể anh chán vở kịch đến đâu, anh vẫn nán lại rạp hát chỉ để xem nó kết thúc thế nào.

– Con xin mượn hơi thở của ngày hôm nay, La hun Kawak, ka Wo, Bảo Lốc 10, Cóc 2, mặt trời thứ mười chín của unial thứ năm, tun thứ mười chín,ka’tun thứ mười chín của b’ak’tun mười ba.

Tôi di chuyển quân cờ thứ mười tám lên phía trước, đến ngày Chúa tể 4, leo qua hai sườn dốc phía tây của quả núi bị xói mòn phủ đầy bụi đỏ xám, tìm lên cửa hang trên cao, nơi có những tiếng hú hét vang vọng.

71

Một trong những tác dụng đặt biệt của những món ma túy dùng trong cờ Hiến tế là dường như chúng tạo ra một vùng riêng biệt trong não anh. Anh có thể bỏ dở ván chơi và làm những công việc bình thường trong vài ngày hoặc vài tuần mà không hề cảm thấy đầu óc bị ám ảnh về ván chơi, nhưng ngay khi anh dùng tiếp một liều nữa, anh sẽ lập tức quay lại đúng chỗ đã dừng lần trước và tiếp tục chơi mà không cần định lại phương hướng. Tôi đoán nó không khác lắm cái cảm giác mỗi tuần xem một phần mới của một chương trình truyền hình, hay đọc tiếp một cuốn sách đang đọc dở, hay chơi trò Warcraft trên điện thoại di động, chỉ có điều nó phụ thuộc vào bản thân anh nhiều hơn và mọi thứ cảm giác đều mạnh hơn. Tóm lại, tuy tôi biết mình vẫn đang ngồi bên chiếc bàn lung lay trên một ban công ở thành phố Belize, nhưng khi tập trung nhìn vào bàn cờ, tôi lại có cảm giác đang ở đúng nơi tôi đã tìm ra Madison, trên sườn tây quả núi sụt lở, và không cần cố gắng lắm, tôi cũng hình dung ra hơi nóng của mặt trời già cỗi sau lưng và nghe thấy tiếng ào ào của những cơn mây bụi màu đỏ gạch đang cuộn lên khắp xung quanh; và tôi càng di chuyển quân cờ thứ tám về phía trước, mọi thứ càng trở nên sáng sủa và tôi gần như cảm nhận được sỏi đá dưới chân cũng như ngửi thấy mùi xương cháy trong gió. Đúng đường này rồi – tôi nghĩ. Tôi tiếp tục đi. Đường kia. Tôi leo cao mãi, qua đám mây bụi, lên đến tầng mây hơi nước, rồi vượt qua các đám mây tro. Tôi loạng choạng. Các bậc cầu thang đã cũ đi nhiều so với lần trước tôi đi qua, chúng rạn nứt và lồi lõm đến mức khó lòng mà đứng vững được, nhưng với cảm giác thăng bằng như bò bằng tứ chỉ, rồi cứ liên tiếp lên các bậc thang núi lở, ra khỏi đám bụi, qua những đám mây bụi nước đóng băng, bước vào một vùng lạnh cóng ngay dưới vòm trời. Tiếng gào rít ầm ĩ hơn lúc trước. Tảng đả đã biến mất. Tôi ngẩng đầu lên quan sát phía đông một giây, thử nhìn xem có thấy các thế giới mới sắp đến, nhưng chúng vẫn bị che khuất sau trái núi lừng lững nên tôi lại cúi xuống. Lòng hang trước mặt tôi đã mở rộng hơn so với ngày Chó 12, Rắn cạn 16, và khi tôi lần đường chui xuống, đá mới vỡ vụn ra khắp xung quanh, tôi càng xuống sâu thì khe nứt càng mở rộng và tôi thấy nó quá sâu đối với quân cờ số tám. Tiếp tục đi, – tôi tự nhủ, – không sao đâu.

Tôi đặt quân cờ thứ chín xuống bàn. Lòng vực mở rộng thêm và tôi khẳng định rằng nó lớn hơn bất kỳ cái hang nào trên trái đất. Cảm giác có lẽ sẽ giống như leo dây từ trên đỉnh một sông băng methane dựng đứng xuống một khe vực rộng hàng dặm trong lòng một mặt trăng vệ tinh Sao Thổ. Tuy nhiên, viên đá thứ chín có mối liên kết chặt chẽ với viên thứ tám và tôi cứ thế bò sâu xuống mãi, hướng đến trung tâm quả địa cầu, tiến vào cơn lốc xoáy gầm rít. Các sinh vậy bay lượn xung quanh nhưng không hề chạm vào người tôi, hệt như lũ dơi bay sạt qua anh khi anh đứng trước một cửa hang lúc mặt trời lặn. Anh ngửi thấy mùi phân chua chua của chúng, cảm thấy rõ không khí tạt vào người, nghe thấy tiếng cánh vỗ dồn dập những lặng lẽ như một cơn lốc cuốn theo những mảnh vải da, và lần nào cũng vậy, chúng chỉ bay sượt qua người anh… nhưng những sinh vật quanh tôi to lớn hơn dơi, chậm chạp hơn, và có vẻ… hiền lành hơn, tôi đoán thế, chúng không có cánh và dĩ nhiên lũ dơi luôn lặng lẽ, ít ra là với con người chúng ta, còn những sinh vật này thì huyên náo đến điếc tai. Có lẽ đây chính là nơi Dante phát điên khi ông ta tưởng tưởng ra cảnh những kẻ đam mê nhục dục bị đày đọa trong cơn cuồng phong dưới địa ngục. Khi cặp mắt bên trong tôi quen với bóng tối lờ mờ, tôi bắt đầu thất rõ hơn các sinh vật lạ, tuy không phân biệt rõ được từng con nhưng tôi nhận thấy những chuyển động giống như của các sinh vật biển, chỉ có điều không phải sư tử biển. Chúng giống những con cá voi trắng với cái trán tròn lồi ra phía trước và làn da trắng căng nhẵn… nhưng cái gáy ụ lên lại khiến chúng nom giống những thằng gù hoặc thằng lùn với cơ thể ngắn tũn và cái đầu to kềnh… nhưng chúng lại có cái đuôi ngắn và mập mạp và những cái chồi sơ khai nhú ra thay cho tay – giống con nòng nọc mới hóa thành cóc chăng? – nhưng chúng lại có tai, và những quả tim đang đập rõ ràng dưới lớp da trong suốt, những con mắt lồi chuyển động qua lại dưới mí nhắm chặt, hệt như…

Phôi phai.

Chúng là các a’nan, dòng giống của loài người, linh hồn của những người chưa ra đời.

Chả trách chúng đông đến hàng tỉ tỉ, gần như vô tận. Tòan bộ cư dân tương lại của loài người đều ở đây, tất cả đàn ông và đàn bà, những người sẽ được sinh ra sau ngày Chúa tể 4 và hẳn sẽ bao giờ được sinh ra nếu tảng đá kia rơi và lấp kín miệng hang. Khi mặt trời của b’ak’tun chạm tới thiên đỉnh vào ngày Chúa tể 4, nó sẽ rọi thẳng qua khe vực xuống lòng hang và chiếu sáng các a’nan. Không khí trong hang sẽ nóng lên, nở ra, cuốn chúng lên cao, ra khỏi hang và tỏa đi khắp trái đất. Tôi nhớ lại những điều Jed 2 thuật lời công nương Koh rằng con người trên tầng thứ không có ba cái hang: Hang của Người Chết nằm ở đầu bên kia thế giới, ở hướng tây, Hang của Người Đang Hít Thở đương nhiên chính là nơi mà chúng ta gọi là thế giới và cuối cùng là đây: Hang của Những Người Chưa Ra Đời.

Tôi quan sát. Tôi nghe ngóng. Đột nhiên, tôi nhận ra một điều: chúng đang hạnh phúc.

Những cái bóng của ý thức con người sắp thành hình đang chơi đùa. Hay nói theo lối các cụ ngày xưa thì chúng đang hội hè đình đám. Chúng bay lượn thành từng bầy, rượt đuổi nhau như rái cá. Chúng lắc hông như các vũ công nhảy điệu disco những năm 70. Chúng quay tròn, quay tròn trong niềm hân hoan bất tận.

Dần dần, đôi tai trong tiềm thức của tôi cũng quen với các tiếng động xung quanh và bắt đầu hiểu những tiếng tru tréo lọan xạ. Trước tiên, tôi nhận ra không phải chúng gào lên với nhau mà là với tôi, với chính tôi, bằng thứ ngôn ngữ sơ khai mà chỉ có những đứa trẻ sơ sinh mới hiểu. Và lúc này, tôi đã nghe rõ chúng nói gì:

HÃY ĐỂ CHÚNG TÔI Ở LẠI ĐÂY

NGÀI! CON MA RÓC XƯƠNG!

XIN HÃY CHO CHÚNG TÔI Ở LẠI ĐÂY!

CHÚNG TÔI KHÔNG MUỐN ĐI!

CHÚNG TÔI KHÔNG MUỐN SỐNG DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI!

HÃY CHE CHÚNG TÔI LẠI!

HÃY ĐẨY TẢNG ĐÁ XUỐNG!

HÃY CHE CHỞ CHÚNG TÔI!

HÃY GIẤU CHÚNG TÔI ĐI!

ĐẨY TẢNG ĐÁ XUỐNG ĐI!

Không một sinh vật nào muốn ra đời cả.

Nhưng tôi cũng không thể ở lại đây lâu hơn nữa. Đến một lúc nào đó, anh buộc phải tiếp tục chuyển quân, ngay cả khi chơi một mình, và tôi cảm giác như quân cờ thứ chín đang muốn bứt mình khỏi rìa ô cờ mà nó đang đứng. Tôi di chuyển bốn bước dọc theo trụcgiữa bàn cờ màu lục – lam, qua nhiều năm trên con đường gồ ghề, ra khỏi cái hang và bước ra ngời trời lạnh ngắt, đỏ dẫm như một con chó ra đám sương mù nhớp nháp. Tôi vẫn còn nghe thấy các a’nan kêu gào sau lưng, van vỉ tôi giúp họ không phải ra đời, tránh xa khỏi thế giới đầy khổ đau. Quân cờ cuối cùng của tôi leo cao mãi, cao mãi, đến khi gặp một khối ngọc bích bằng phẳng màu xanh lá cây, nhỏ bằng khoảngô đích trên bóng chày, và tôi nhận thấy bầu không khí loãng lúc này hoàn toàn quang mây. Tôi đứng thẳng lên và nhìn quanh. Các ô phần tư thể hiện thời gian xoay tròn dưới chân tôi trắng, đen, vàng và đỏ. Tôi đã lên tới đỉnh.

– Anh uống thêm gì nhé? – cô gái phục vụ bàn hỏi với giọng thệ thọt.

– Ờ… cô lấy giúp một tách espresso nữa được không? – tôi đáp, – và thêm một ly Cruzan.

– Dĩ nhiên.

Cô ta quay đi. Tôi vươn vai và ngồi thẳng thớm lại. Con chó ngoài đường vẫn đang sủa, với tiếng tru hệt như con Desert. Trong đầu tôi hiện lên cảnh tượng những phút cuối cùng trong cái đêm cuối cùng tôi lên ra chỗ chuồng nhốt con chó, khi tôi tôi biết mấy thằng anh họ sẽ tra tấn nó đến chết vào sáng hôm sau. Tôi cho nó uống nước, vuốt ve nó một lát qua chấn song, và cuối cùng, khi chắc chắn rằng mặt trời, mặt trời không đợi lâu thêm nữa, tôi lấy trong ba lô ra một sợi dây và nhặt một thanh kim loại mạ crôm long ra từ mảnh vỏ xe cũ nào đó. Tôi quấn sợi dây quanh cổ con chó, buộc thanh kim lọai và và xoay. Sợi dây lún sâu vào khoang cổ rậm lông của Desert, nó im lặng một cách kỳ lạ, run rẩy nhưng không giãy dụa nên tôi biết tôi biết nó hiểu tôi đang làm gì. Nó tắt thở sau chưa đầy một phút, trong tư thế cuộn tròn, bất động, đầy vẻ biết ơn. Người bồi bàn đã quay lại. Tôi tợp một ngụm rượu rum, thêm một ngụm espresso, và – chỉ để chọc tức Marena – một viên kẹo dẻo.

Ahhh. Dễ chịu hơn rồi.

Tôi lại cúi xuống bàn cờ, nơi tôi vẫn đang đứng trên ô cờ màu ngọc bích ở chính giữa, trên đỉnh ngọn núi. Tôi nheo mắt nhìn quanh. Bên dưới, gió bão đã lặng đi và bụi đất đnag lẳng xuống, phủ kín mặt đất bằng phẳng. Có bốn cầu thang, hoặc có thể gọi là bốn lối mòn hay bốn con đường, hay cái khỉ gì đó tương tự cũng được, tỏa ra bốn hướng quanh bệ đá. Con đường ở mặt đông bắc dẫn xuống các bờ biển, nơi các thành phố công nghiệp mục ruỗng nằm chen chút san sát, chạy qua những con sóng bạc đầu và những xoáy nước trắng xóa che phủ trên các hẻm núi dưới đáy đại dương, chạy dưới những chiếc máy bay khổng lồ bạc trắng nối đuôi nhau, qua các thành phố trắng màu đá phấn nhưng hoen ố bẩn thỉu, đến tận vùng băng tan, rồi vào vùng băng trồi và cuối cùng là đến vùng băng hà bĩnh cửu. Một mùi cay cay như khói thuốc lá, mùi của quá khứ gần, thỏang qua bên tay trái tôi, tôi liền quay chín mươi độ ngược chiều kim đồng hồ để nhìn về hướng tây bắc. Ở đó có những đụn tan cháy dở và những đám tro phóng xạ cuốn lên, xa hơn nữa, rải rác những giếng dầu, những thung lũng khô cạn nom như cái âu đựng than đên sì cháy âm ỉ, bên trên và quanh miệng ngong nghòeo những dải nhựa đường, khói a-xít bốc lên ngùn ngụt, và xa nữa, tôi trông thấy những cuộn khói than tỏa ra từ các đầu tẩu hơi nước, những đòan người đói khát kéo theo xe cảng đi ngang dọc thảo nguyên, và ở tít đằng xa nhất, những bầy chim mòng biển ăn rác rưởi lượn trên mặt nước tối đen, trên lớp bằng mòng và trên tầng đất đóng băng vĩnh cửu trong buổi chiều tối kéo dài vô tận. Tôi quay sang hướng tây nam, đưa mát nhìn khắp các đầm lầy nước mặn đầy vẻ dữ tợn, nhung nhúc lòai giáp xác, khắp các cánh đông nhan nhản lũ chim ăn thịt khổng lồ với bộ lông vàng nhạt đang lao bổ xuống những đàn hipparia (Lòai động vật tổ tiên của lọai người ngày nay.) Tôi trông thấy một con ta-tu với cái mai như làm bằng đồng, to phải bằng chiếc Cherokee của Marena đang chui xuống một cái khe cạn, tiếp đến là một bầy khủng long bay, với sải cánh dài tới bốn mươi feet phủ lông tơ vàng óng, lượn theo hình xóay ốc trên xác những con cá sấu khổng lồ bên bờ trái đường biển Kỷ Phấn Trắng (Tức một đường biển nông vào đường kỷ Phấn Trắng từng ăn sâu vào lục địa Bắc Mỹ, nó kéo dài từ vịnh Mexico ăn thông ra tận Bắc Băng Dương, chia lục địa Bắc Mỹ thành hai nửa), và càng ra xa, càng xuất hiện nhiều sinh vật, nhiều địa danh, nhiều thời kỳ, nhiều giai đọan của quá khứ, giống như những bức tranh họat họa khắc vào rãnh núi mấp mô, kéo ra xa mãi cho đến khi tôi phải tiếp tục quay người sang trái. Ở đằng đông năm, bình minh đã xòe những ngón tay móng vuốt đỏ như máy lên vương quốc của những điều có thể xảy ra, một vùng đất trải rộng tít tắp, vượt qua cả nơi đường chân trời chạm vào mặt đất, tôi có cảm giác như đang đứng trên một hành tinh lớn bằng sao Mộc, hoặc không… phải nó là đang đứng trên một cánh đồng phẳng lỳ và mênh mông bất tận, và vì không khí trong vắt hòan tòan, hay chính xác hơn là chẳng hề có một không hí nên tôi tưởng như thấy rõ mồn một từng sự kiện ở đằng xa nhất, rõ như thể chúng ở ngay dưới chân tôi. Nhiều sự kiện quá. Quá nhiều.

Tôi tiếp tục chậm rãi quay người ngược chiều kim đồng hồ như hình phải chiếu qua gương của chiếc kim giây trên mặt chiếc đồng hồ hiệu Oyster Perpetual của Lindsay Warren. Giai đọan phát tác cuối cùng của Người Chèo Xuồng Già đã bắt đầu, đó là lúc anh cảm thấy cái mà công nương Koh gọi là “những con gió khác”. Jed 2 giải thích rằng ý bà ta muốn nói tới các “yếu tố”, hay năng lượng vô hình được hình tượng hóa. Với tôi, thứ đầu tiên tôi thấy thuờng là sức nóng. Nhìn nó hơi giống một bức ảnh chụp bằng hồng ngọai, duy có điều hơi nóng bức xạ từ các cơ thể sống, từ mácmóc và từ mặt đất lại có mày nâu như thuốc màu cũa hang Day-Glo và có múi như rượu rum lẫn với mùi ớt. Tiếp đó, thêm nhiều hình ảnh xuất hiện trong bức tranh: những tia sáng lóng lánh như kim cương tuôn ra từ mặt trời cháy rực, nhảy nhóc quanh trái đất và rơi trở lại mặt trời, những đợt sóng âm có màu nâu xám xịt truyền đi hàng nhìn tỉ byte thông số vô dụng, song siêu âm thì có mày gần như hỗn hợp tạp ra khí trộn xanh tím với da cam nếu chúng không thành ra màu xám, và khi giọt nước nhận thức của tôi lan ra đến một giới hạn nhất định, cơn lốc xóay của những tia gamma màu lục lam chiếu xuyên qua người tôi như những viên đạn súng lục bắn vào bầy ruồi vàng. Tôi tưởng như nghe thấy cả tiếng thiên thạch xé gió lao về phía trái đất, tiếng các địa tầng và chạm nhau, tiếng năng lượng tích tụ lại trong các khối đá hoa cương chồng chất, và dường như tôi có thể quan sát thấy lực hấp dẫn – nó có màu đỏ tía như quả dâu tằm – phóng ra từ trái đất, hút về phía những ngôi sao tối mờ và tan biến vào những khối ap xe đang tồn tại đó, tôi thậm chí thấy cả các hố đen in bóng lờ mờ lên những đám mây bụi vũ trụ. Rồi tôi bắt đầu nhận thấy những năng lượng nhỏ hơn, hay ta nên nói là yếu hơn, năng lượng của sinh vật sống, hơi nước bốc lên từ cây cối phát sáng màu xanh lá cây và đất son, màu da cam lạnh lùng từ những cây đang bóp nghẹt cây bên cạnh, những vệt chất phát tiết của các con vật kéo đồng lọat đi theo chúng như những hạt xòan trên sợi dây. Và cuối cùng, tôi nhận ra năng lượng của con người. Nhu cầu bức bách về tình dục có màu đỏ rực lên đèn hiệu giao thông trên đường cao tốc, lan tràn khắp các nơi có người ở như những gợn trên đường cao tốc, lan tràn khắp các nơi có người ở như những gợn lăn tăng trên mặt hồ chứa dầu, rải rác những đốm sáng nhấp nháy của cơn cực khóai và tôi nghĩ tôi có thể cảm nhận được mùi vị của chúng từ xa và cái vị đó giống như vị nhím biển. Những tin sáng và hồ quanh trắng xanh của sự sợ hãi lan khắp mặt đất như những vết rạn nứt, tụ lại thành sét hòn ở các trường học, bệnh viện và những nơi đang có chiến sự. Yai – sự đau khổ, hay khói của sự đau đớn – bốc lên như sương sớm từ những giọt sương đẫm máu đang sôi lại dưới mặt đất. Nó có màu xám xanh gần như màu hoa ỏai hương nhưng không đẹp đẽ được như thế. Nó tụ lại như những cuộn khói, những dải sương mù, những đám mây. Nó có mũi đúng như Jed 2 đã tả, cái mùi mà anh ngửi thấy ở những con vật bị tra tấn cho đến chết, cái mùi lạ lùng như mùi ngược lại của mùi quế. Nó là thứ tinh chất mà những người khói ưa thích nhất.

Như tôi nghĩ tôi đã từng giải thích, chữ yai trong tiếngCh’olan có nghĩa là “đau khổ”, nhưng nó được hiểu là “khói đau đớn” hay “sự đau đớn dùng để dâng cúng thần linh”, hoặc các bạn có thể hiểu là “sự hành xác”. Từ ngược nghĩ của nó là je’elsaj, nghĩa là “niềm vui” hay “niềm hạnh phúc”, nhưng được hiểu theo nghĩa bị động hơn, như “an nghỉ” hoặc “thanh thản”. Nhưng ngay cả khi đã đứng đến vài giờ để quan sát chân trời đằng đông, tôi vẫn thấy yai dày đặc như một đám mây sát chân trời đằng đông, còn những khỏang thời gian ngắn ngủi của je’elsaj chỉ như mấy chóp núi phủ lớp cỏ mày vàng xanh lá ra đây đó qua màn mây mù. Quả là một chiến không cân sức, – tôi thầm nghĩ. Nếu anh chọn ra một người bất kỳ, cộng những khỏang thời gian hạnh phúc và đau khổ của anh ta và đem so sánh, anh sẽ thấy chẳng khác nào so với một giọt nước với một ga lông. Và càng nhìn ra xa… hừ, trước giờ tôi cứ nghĩ tương lại sẽ tốt đẹp hơn cơ đấy, cứ tưởng người ta sẽ chán ghét chiến trang, sẽ chữa khỏi bệnh tật hay ít ra cũng cho tất cả lòai người dùng phê pha những viên thuốc hạnh phúc và đặt họ ngồi trước một màn hình hai tỉ pixel… nhưng thay vào đó, càng nhìn ra xa, tôi càng thấy đám mây yai càng lan rộng khắp, và trong hằng hà sa số những thế giới sẽ tồn tại trong tương lại, không một thế giới nào có quá vài hòn đảo je’elsaj lác đác nhô lên giữa các đám mây. Vì một lý do nào đó, tương lại sẽ chỉ tồi tệ đi.

Tuy thế, tôi vẫn cố đấm ăn xôi. Nhưng càng đếm, càng cộng và so sánh, tôi càng cảm thấy mình giống như… Marie Curie, chẳng hạn thế, và ai đó vừa đưa cho tôi chín tấn quặng uranit và bảo tôi tách hết uranium trong đó ra; và sau ba năm, tôi cho ra sản phẩm là một tí cặn lắng dưới đáy chiếc ống nghiệm cuối cùng, nó mỏng mang đến mức chẳng ai biết có nó ở đó nếu nó không sáng lóe lên.

Cuối cùng, tôi bỏ cuộc.

Thật ra cũng chẳng có gì là lạ, – tôi nghĩ. Nếu so sánh tưong quan thì sự đau khổ mạnh hơn vô số lần. Bất cừ ai từng trải qua sự đau đớn thật sự đều biết rằng người ta sẵn sàng đánh đổi một giờ của bất cứ niềm vui nào để để tránh một phút đau đớn thật sự. Tôi cứ suy nghĩ mãi về đứa bé với những viên sô cô la Milk Dud trên đọan băng ghi hình, mặt nó xị xuống, mếu máo, nước mắt nước mũi ràn rụa, vậy mà mới một vài phút trước, nó còn vui vẻ, phấn chấn, tận hưởng một ngày tuyệt vời, có lẽ là tuyệt vời nhất trong đời cho đến lúc đó, và bất thình lình, tất cả đổ vỡ tan tành. Hãy nhìn cái hố sâu không thể lấp đầy ngăn cách giữa cảm giác của đứa trẻ trên đọan băng và cảm giác của chính nó chỉ vài phút trước, cái hố ngăn cách đó sẽ vĩnh viễn đeo đẳng nó dù có đi đến bất cứ đâu… và khi thấy cái hố ấy, người ta hiểu rằng chỉ còn một cách giải quyết duy nất, đó là làm cho vũ trụ biến mất vĩnh viễn và ngày lập tứ, vì nó quá lhủng khiếp và không hạnh phúc nào, dù lớn đến đâu, có thể bù đắp được. Cho dù chỉ một tuần nữa, ai đó sẽ tìm ra cách chữa trị mọi bệnh tật và ngăn chặn tuổi già, cho dùng càng ngày hôm ấy, ai đó sẽ phát triển thành công phản ứng hạt nhân năng lượng thấp, phát minh ra máy dịch chuyển trong không gian và món bánh rán ngon lành không béo, và sau đó là cả một nghìn tỉ năm hạnh phúc không có chết chóc thì cũng không đáng để thế giới tiếp tục tồn tại chừng ấy thời gian, vì trong lúc đó đã có thêm nhiều đứa trẻ phải trải qia nỗi thất vọng tưong tự và không điều gì xảy ra sau đó có thể cân bằng được “nỗi đau lớn như độ sáng biểu kiến của một ngôi sao” ấy, dù chỉ một phần nhỏ đến đâu. Nếu anh có dù chỉ một phần nhỏ đến đâu. Nếu anh có dù chỉ một mảy sự thấu cảm, anh sẽ biết rằng một nỗi đau như thế có thể xóa sạch mọi điều tốt đẹp trong suy nghĩ của một người về thế giới. Còn nếu anh không có sự thấu cảm, nỗi đau đó sẽ xảy đến với anh để anh tự ngộ ra. Và có những người cho rằng họ không bào giờ có cái cảm giác đó… ừ, họ có thể là người tốt, nhưng thích phủ nhận… họ như những đứa trẻ ngôi trong xe, đi ngang qua một đàn bò và bảo nhau rằng bỏ thật đáng yêu khi thành món hamburger. Mỗi nỗi đau như thế không thể xoa dịu, không thể nguôi ngoai, không thể bù đắo, không thể bỏ qua. Và hơn hết thảy, nó không thể được phép lập lại. Dĩ nhiên, “nỗi đau lớn như độ sáng biểu kiến của một ngôi sao” là cách nói sáo rỗng. Cũng như nói “tốc độ ánh sáng”. Nó là thứ mà ai cũng biết và đôi khi nói ra mà chẳng hiểu nghĩa là gì sất. Tuy nhiên, khác với “tốc độ ánh sáng”, anh có lý do để không hiểu từ kia vì anh sẽ bỏ cuộc ngay khi bắt đầu hiểu. Anh sẽ chạy ngay khỏi phòng và trốn rúc vào bồn tắm. Và chỉ với sự tự dánh lừa bản thân ghê gớm anh mới có thể tiếp tục làm bất cứ điều gì khác. Hừ, sự đánh lừa đó có lẽ vẫn tiếp diễn cho đến tận ngày hôm nay. Nhưng giờ đây, chúng ta đã có thể khiến tất cả chám dứt. Và chúng ta biết điều đó là điều nên làm…

Òai.

Tôi chóng mặt.Tôi rời mắt khỏi đường chân trời và lấy lại thăng bằng. Đỡ rồi.

Chết tiệt. Tôi vẫn nghe thấy tiếng kêu gào của những linh hồn chưa ra đời.

Và cũng chẳng có gì là lạ, – tôi nghĩ. Chúng ta lôi cổ họ đến với thế giới, đặt lên một tay họ chín tấn kim lọai độc hại và nửa gram chất phát sáng lên tay kia, và chúng ta muốn họ cư xử như vừa nhận được một giao kéo công bằng. Người ta nhất trí phá bỏ những bào thai mà sau ngày cuộc sống của chúng chắn chắn sẽ đau khổ, những đứa trẻsẽ dược sinh ra với bệnh vảy cá, ví dụ thế, nhưng họ bỏ mặc không phá những đứa trẻ sẽ được sih ra với hội chứng khiến chúng đau đớn hàng ngày.

Vấn đề là anh không có nghĩa vụ phải làm điều tốt đẹp ngay cả với người đang sống chứ chưa nói gì đến người chưa có mặt trên trời, nhưng anh có nghĩa vụ không được làm họ đau đớn. Mà cho họ một ý thức tỉnh táo chính là làm họ đau đớn, ý thức tỉnh táo có lẽ là một trong những mánh bẩn thỉu nhất mà gien di truyền dùng để tái tạo bản thân chúng, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải vào hùa với chúng. Với chúng ta, ý thức tỉnh táo chẳng là gì ngòai sự sai lầm.

Tôi tợp một ngụm Crusan.

Vào ngày Chúa tể 4, Bóng tối 8, 0.0.0.0.0, tức ngày 13 tháng 8 năm 3113 trước công nguyên, tổ tiên của chúng ta đã lập một giao kèo với tổ tiên của họ để được ban con cháu. Để có các thế hệ hậu duệ cúng tế đồ ăn của họ, tưởng nhớ họ, ngợi ca họ và quan trọng hơn hết là cúng cho họ chất men của sự đau đớn. Je’elsaj là dành cho chúng ta, còn yai là dành cho những người khói. Họ thèm nó nhưng nguời sành rượu nho thêm một chai Haut-Brion năm 1947, như con bướm thêm nước đường, hoặc như những thêm nước đường, hoặc như những tay hâm mộ đau xe thích xem cảnh đâm nhau.

Nhưng điều đó chỉ kéo dài, rất dài chứ không kéo dài mãi mãi. Chúng ta phải dâng cho những người khói – hay gọi cách khác là tổ tiên, thần thánh hay gì gì đó – dù những gì chúng ta nợ họ, nhưng chỉ cẩn đủ thôi, không cắn hơn.

Vì vậy, những Người Đếm Mặt Trời Vĩ Đại, những Người Thông Thái, đã tính tóan rằng ngày Chúa tể 4 là ngày nghĩa vụ trả nợ có thể hòan thành. Đó là ngày các Hậu Duệ phải làm điều cần làm.

Tôi ngả người ra sau. Tôi bẻ các khớp ngón tay và xoa mặt. Tôi nhìn quanh. Con chó với tiếng tru giống con Desert đã ngừng sủa. Vài phút nữa, nàng sẽ bắt đầu chiếu vào bàn tôi. Tôi vẫy tay gọi cô gái hầu bàn.

Để trở thành một người đếm mặt trời, – tôi nghĩ, – không chỉ đơn giản là biết chơi cờ Hiến tế hay sử dụng được Bụi Của Người Chéo Xuồng Già và Muối Mặn Già. Trách nhiệm thực sự của họ là phải nhận định thế giới mà không chịu tác động của sự đa cảm, không phao phí hết sức lực vào vào những mơ tưởng hão huyền, những cách giải quyết mê tín, không phủ nhận những gì không muốn tin và mọi điều tầm thường khác mà những kẻ tầm thường vẫn làm. Nghĩa vụ của họ là nhìn tỏ tưởng mọi sự, thấu hiểu đủ để biết điều gì là thực sự đúng và thực hiện điều đó chứ không phải điều khiến họ cảm thấy dễ chịu. Hãy để ý lời các a’nan – tôi nghĩ. Họ biết mình đang nói gì. K’a’oola’el, k’a’oltik. Người nào biết thì vẫn biết.

Những nhà thông thái viết nên cuốn Thư tịch không cho chúng ta biết điều về xảy ra mà cho chúng ta biết điều nên xảy ra.

Cô gái hầu bàn khép nép lại gần. Lần đầu tiên tôi thực sự nhìn cô ta. Cô ta có nước da nâu như cà phê, đầu để ngôi giữa và khuôn mặt ngây thơ. Tôi áng chừng cô ta chỉ độ mười lăm. Tuy ván cờ đã kết thúc nhưng tôi vẫn nhìn thấy quanh hông cô ta những tia sáng màu xám xanh như thiếc nóng chảy, cái màu khủng khiếp của yai. Chắc là có một vết đâu gì đó trong ổ bụng, – tôi nghĩ. Khó sinh chăng? Không, cá là không phải. Lở lóet à? Hay u nang tử cung? Có thể lắm. Nhưng đừng có hỏi cô ta chuyện đấy. Mày tuy có tinh tường hơn thường ngày thật, nhưng vẫn không phải là bác sĩ.

Tôi thanh toán tiền. Cô ta chậm rãi quay đi.

En todos modos.

Nhưng vẫn còn điều gì đó khiến tôi khó chịu. Sao Koh có thể không biết cuốn Codex muốn chỉ bảo tôi điều gì? Hay đúng hơn là bà ta đương nhiên biết, nhưng sao bà ta không cho tôi, chính xác là hơn là Jed 2, hay?

Tôi đóan rằng bà ta muốn chúng tôi tự hiểu. Hừ, vậy là bà ta có che mắt Jed 2 một chút. Chẳng có gì lạ. Nhưng sao hắn có thể ngờ nghệch thế nhỉ?

Nhưng tôi thì vẫn có vấn đề ấy trong nhiều chuyện, ý tôi là đôi khi tôi rất dễ bị đánh lừa. Nhất là khi có một cô gái trẻ xinh đẹp dính vào.

Hừ, dù gì thì hắn cũng chẳng bao giờ biết. Jed 2 ấy.

Tôi tợp một tợp gần hết chỗ rượu rum. Chúc hắn may mắn. Thằng con hoang.

Tôi moi ví ra lần nữa và đặt lên bàn món tiền boa gấp năm lần tiền rượu vì, các bạn biết đấy, như thế thì có sao? Tôi uống cạn tách cà phê, bỏ vào mồm thêm một viên kẹo dẻo.

Ký sinh trùng à? Quỷ tha ma bắt chúng đi. À… biết đâu chúng không chịu được cồn. Tôi dốc nốt ngụm rượu cuối cùng. Tôi ngả người ra sau.

Vậy là trách nhiệm thuộc về mình, – tôi tự nhủ. Một cảm giác… Ờ… một cảm giác về trách nhiệm to lớn. Nhưng nó không làm tôi choáng ngợp. Nó khiến tôi thêm mạnh mẽ.

Dù sao, như tôi đã nói, đó phải là kẻ hoàn toàn chán ghét thế giới. Phải vậy không? Kẻ nào đó nhận thức được tầm quan trọng của điều cần phải xảy ra, kẻ chấp nhận thực hiện bổn phận đó và có khả năng làm được điều đó.

Được thôi. Không vấn đề gì.

Tôi có quyết tâm làm điều đó. Tôi có phương tiện để làm điều đó. Tôi có sự chán ghét và tuyệt vọng. Và trên hết, tôi không phải thằng ngu từ trong gen như Madison. Biết đâu hắn đã làm hỏng phi vụ. Có thể vẫn còn những người chưa nhiễm vi rút ở châu Nam Cực hay đâu đó, và rốt cuộc họ sẽ khiến vòng quay cuộc sống bắt đầu từ đầu và thế là mọi sự thành ra công cốc. Hừ, lần này điều đó sẽ không xảy ra. Không thể xảy ra khi người làm là tôi.

Đây là một trách nhiệm lớn, nhưng tôi có thể đảm đương được.

Thực ra, – tôi nghĩ, – cũng dễ thôi mà. Họ đã gửi cho ta thông điệp về nhiệm vụ cần thực hiện, nhưng quan trọng hơn, họ đã gửi cả công cụ để hoàn thành nhiệm vụ đó.

Tôi đóng bàn cờ lại và đứng lên. Rốt cuộc, tôi đã hiểu rõ mình phải làm gì.

Các bạn đang đọc truyện tại metruyenfull.org nếu truyện hay các bạn nhớ cho 1 đánh giá nhé


SIÊU SALE HÀNG HIỆU
Các bạn đọc nếu thấy lỗi chương bấm vào thống báo lỗi chương báo giúp admin để cập nhật lại nhé!

Để có kinh phí duy trì nên website có một số quảng cáo các bạn đọc thông cảm nhé <3